Dân số Việt Nam
xấp xỉ 96 triệu người, tỷ lệ sử dụng Internet chiếm hơn 66% (đứng thứ 16 trên
thế giới về số lượng người sử dụng Internet), trong đó có khoảng 94% người dùng
Interntet với mục đích sử dụng mạng xã hội. Các mạng xã hội được người dùng Việt
Nam sử dụng phổ biến là Facebook, Zalo, Youtube, Instagram… trong đó nhiều nhất
là mạng xã hội Facebook với khoảng 60 triệu người dùng (đứng thứ 7 trên thế giới).
Trung bình 1 ngày, người Việt Nam dành 2.32 tiếng để truy cập mạng xã hội,
riêng đối với Facebook thời gian truy cập mạng xã hội này là nhiều nhất (3.55
tiếng), cao hơn so với mức trung bình 1.42 tiếng. Người dùng có nhiều lý do để
truy cập mạng xã hội. Trong đó, mục đích chính là kết nối, liên lạc (26.8%).
Khi truy cập mạng xã hội, người dùng quan tâm nhiều nhất đến việc cập nhật tin
tức 71.7% ở cả 2 giới. Riêng với nội dung chia sẻ, tâm sự (nữ 67.2%, nam 55.3%)
và quảng cáo/ bán hàng (nữ 41.6%, nam 29.5%) được nữ giới quan tâm nhiều hơn so
nam giới.
Vậy mạng xã
hội là gì, nó có những mặt tích cực và tiêu cực gì đối với người
dùng?
- Mạng xã hội (social network) là hệ thống thông tin cung cấp cho cộng đồng người sử dụng mạng
các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ và trao đổi thông tin
với nhau, bao gồm dịch vụ tạo trang thông tin điện tử cá nhân, diễn đàn
(forum), trò chuyện (chat) trực tuyến, chia sẻ âm thanh, hình ảnh và các hình
thức dịch vụ tương tự khác.
- Mặt tích
cực của mạng xã hội: mạng xã hội giúp cho người dùng cập nhật
tin tức, kiến thức, xu thế; cải thiện chất lượng và tốc độ của báo chí và dịch
vụ công; kết nối bạn bè, gia đình, cộng đồng; kết nối yêu thương và
hòa nhập quốc tế; cải thiện kỹ năng sống, kiến thức, kinh doanh, quảng cáo miễn
phí; tiết kiệm kinh phí, thời gian, sức lao động và thân thiện với môi trường;
giải trí, khuyến khích, phát huy tài năng; bày tỏ và kiểm soát cảm xúc.
- Mặt tiêu
cực của mạng xã hội: khi người dùng sử dụng mạng xã hội nhiều
sẽ hạn chế tư?ng t?c gi?a m?i ng??i; t?ng c?m gi?c mu?n g?y s? ch? ?;
xao nh?ng nh?ng m?c ti?u th?c c?a cu?c s?ng; c? nguy c? m?c b?nh tr?m
c?m;?chuy?n t?nh c?m d? b? tan v?;ơng tác giữa mọi người; tăng cảm giác muốn
gây sự chú ý; xao nhãng những mục tiêu thực của cuộc sống; có nguy cơ mắc bệnh
trầm cảm; chuyện tình cảm dễ bị tan vỡ; sử dụng mạng xã hội ảnh hưởng
đến quá trình sáng tạo; xuất hiện những “anh hùng bàn phím”; thường so sánh bạn
với những người khác trên mạng sẽ làm bạn đau khổ; mất ngủ; thiếu sự riêng tư.
Trong thời gian
qua, các thế lực thù địch lợi dụng những tiện ích của mạng xã hội
để tuyên truyền chiến tranh tâm lý, phá hoại tư tưởng, kích động, xúi
dục quần chúng tham gia tụ tập, biểu tình gây mất an ninh trật tự
tại địa phương. Các thủ đoạn chúng thường sử dụng mạng xã hội để
phá hoại như: Sử dụng dịch vụ truyền hình trực tiếp của mạng xã hội (Live
stream) để kêu gọi cộng đồng mạng can thiệp vào nội bộ hoặc tham gia bình luận
trái chiều trên mạng xã hội; sử dụng “khoảng trống thông tin” để tấn công vào sự
hiếu kỳ của công chúng; làm mới thông tin cũ, bịa đặt thông tin mới để chống
phá…
Đối tượng
chúng tập trung, hướng vào là nhóm người cố tình hiểu sai, cố tình bóp
méo, “bôi đen”, xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
ta; cố tình nói xấu, vu khống, “thổi phồng”, “bơm căng” làm sai lệch những giá
trị thực, tốt đẹp mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang nỗ lực xây dựng; nhóm
người thiếu nhận thức về nhãn quan chính trị nên vô tình bị lôi kéo,
hùa theo những ý kiến phản động mà chính bản thân họ cũng chưa thể nhận ra.
Các hành vi vi
phạm pháp luật liên quan đến mạng xã hội được pháp luật điều chỉnh
Để tăng cường
công tác quản lý nhà nước về an ninh mạng, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội
khóa XIV thông qua Luật An ninh mạng với tỷ lệ 86.86% số đại biểu tán
thành, gồm 7 chương, 43 điều, quy định những nội dung cơ bản về bảo
vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia;
phòng ngừa, xử lý hành vi xâm phạm an ninh mạng; triển khai hoạt động bảo vệ an
ninh mạng và quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Tại Điều 8,
Luật An ninh mạng có hiệu lực ngày 01/01/2019, quy định 6 nhóm hành vi
bị nghiêm cấm, cụ thể:
1. Sử dụng không
gian mạng để thực hiện hành vi sau đây:
a) Hành vi quy định
tại khoản 1 Điều 18 của Luật này;
b) Tổ chức, hoạt
động, cấu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người
chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam;
c) Xuyên tạc lịch
sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc
phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc;
d) Thông tin sai
sự thật gây hoang mang trong nhân dân, gây thiệt hại cho các hoạt động kinh tế
- xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành
công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác;
đ) Hoạt động mại
dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác;
phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng;
e) Xúi giục, lôi
kéo, kích động người khác phạm tội.
2. Thực hiện tấn
công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, tội phạm mạng; gây sự cố, tấn công,
xâm nhập, chiếm quyền điều khiển, làm sai lệch, gián đoạn, ngưng trệ, tê liệt
hoặc phá hoại hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia.
3. Sản xuất, đưa
vào sử dụng công cụ, phương tiện, phần mềm hoặc có hành vi cản trở, gây rối loạn
hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông; phát tán chương trình tin học gây
hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử; xâm
nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của
người khác.
4. Chống lại hoặc
cản trở hoạt động của lực lượng bảo vệ an ninh mạng; tấn công, vô hiệu hóa trái
pháp luật làm mất tác dụng biện pháp bảo vệ an ninh mạng.
5. Lợi dụng hoặc
lạm dụng hoạt động bảo vệ an ninh mạng để xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân hoặc để trục lợi.
6. Hành vi khác
vi phạm quy định của Luật này.
Tại Điều 9 quy
định xử lý vi phạm pháp luật về an ninh mạng
Người nào có
hành vi vi phạm quy định của Luật này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà
bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình
sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Trong thời gian
qua, khi Quốc hội chưa ban hành, cũng như Luật An ninh đã được Quốc
hội thông qua nhưng chưa có hiệu lực. Trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, các
cơ quan quản lý nhà nước đã căn cứ vào Điều 156 Bộ Luật Hình sự năm
2015 nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: “bịa đặt hoặc loan
truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng
nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền lợi ích hợp pháp
của người khác; bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ
quan có thẩm quyền thì bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu
đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng
đến 1 năm” và các nghị định sau để xử phạt hành vi liên quan đến an
toàn, an ninh thông tin, cụ thể:
- Nghị
định 72/2013/NĐ-CP, ngày 15/7/2013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp,
sử dụng dịch vụ Internet và thông tin không gian mạng;
- Nghị định
27/2018/NĐ-CP, ngày 01/3/2018 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 72/2013/NĐ-CP, ngày 15/7/2013 của Chính phủ
về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin không gian
mạng;
- Nghị định
174/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và
tần số vô tuyến điện;
- Nghị định
167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ ban hành quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ
nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình
Điển hình,
ngày 12/4/2017 Thanh tra Sở Thông tin Truyền thông ban hành Quyết định
số 08/QĐ-XPVPHC xử phạt hành chính ông Nguyễn Duy Tân, ngụ tại Giáo
xứ Thọ Hòa, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai với số tiền là 20 triệu
đồng về hành vi tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam; phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc mà chưa đến mức
truy cứu trách nhiệm hình sự (quy định tại Điểm a, Khoản 4, Điều 64,
Nghị định 174);
Ngày
18/02/2019, Ủy ban Nhân dân Thành phố Biên Hòa ban hành Quyết định số
552/QĐ-XPVPHC ông Hoàng Văn Hưng – cán bộ Công an Thành phố với số tiền
là 7.500.000đ về hành vi cung cấp thông tin thuộc phạm vi bí mật nhà
nước cho cơ quan, tổ chức, công dân ở trong nước và nước ngoài không
đúng theo quy định (quy định tại Điểm a, Khoản 2, Điều 18, Nghị định
167).
Tô Hợp