Bùi Việt Thắng
(Nguồn: VNĐN số 34 – tháng 11 & 12 năm 2019)
Chân dung nhà văn Bùi Hiển
Nhà văn Bùi Hiển sinh ngày 22-11-1919 tại Vinh, chính quê
ở xã Quỳnh Tiên, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông từng giữ chức Chủ tịch Hội
Văn hóa Cứu quốc Nghệ An, Chủ tịch Hội Văn nghệ Nghệ An, Hội viên sáng lập Hội
Nhà văn Việt Nam, Ủy viên Thừng vụ BCH Hội Nhà văn Việt Nam... Nhà văn Bùi Hiển
có tên trong các công trình: Nhà văn hiện đại (1942) của Vũ Ngọc Phan, Văn học
Việt Nam 1900-1945 (NXB Giáo dục, 1999), Từ điển văn học (Bộ mới, NXB Thế giới,
2004), Từ điển tác giả - tác phẩm văn học Việt Nam (NXB ĐHSP, 2004), Từ điển
tác phẩm văn xuôi Việt Nam [từ cuối thế kỷ X I X đến 1945], (NXB Văn học,
2001), Truyện ngắn Việt Nam: Lịch sử - Thi pháp - Chân dung (NXB Giáo dục,
2007), Nhà văn Việt Nam hiện đại (NXB Hội Nhà văn, 2010), Tuyển tập truyện ngắn
hiện thực 190-1945 (NXB Văn học, 2013),... Một số truyện ngắn đặc sắc của nhà
văn đã được dịch sang các thứ tiếng Nga, Đức, Bungari, Cu Ba, Ba Lan, Pháp,
Trung Quốc. Nhà văn vinh dự nhận Giải thưởng Nhà nước về VHNT, năm 2001.
Tác phẩm chính đã xuất bản: Nằm vạ (truyện ngắn, 1941),
Ánh mắt (truyện ngắn 1961), Trong gió cát (truyện và ký, 1965), Đường lớn (truyện,
1966), Những tiếng hát hậu phương (truyện, 1970), Hoa và thép (truyện, 1972),
Giản dị (truyện ngắn, 1975), Một cuộc đời (truyện, 1976), Ý nghĩ ban mai (truyện
và ký, 1980), Tâm tưởng (truyện, 1985), Tuyển tập Bùi Hiển (1987), 25 truyện ngắn
1940-1995 (1996), Hướng về đâu văn học? (tiểu luận, 1996).
Thung thổ - căn cốt văn hóa của
nhà văn
Khi viết về nhà văn Bùi Hiển, chúng tôi dựa theo chủ thuyết
“Địa - Văn hóa” (Géo- Culture). Theo hướng/phương pháp này thì rõ ràng cần thiết
trước tiên “đặt” đối tượng nghiên cứu trong phạm trù “Văn hóa xứ Nghệ” (bao gồm
cả không gian địa lý Nghệ An - Hà Tĩnh). Theo nhà nghiên cứu Văn hóa Trần Quốc
Vượng thì, bản sắc văn hóa Việt Nam nhìn từ “địa - văn hóa”, phải có sự cố kết
giữa “núi” và “biển”. Quê hương nhà văn hội đủ hai yếu tố căn cốt này. Làng Phú
Nghĩa hạ, nơi nhà văn sinh ra, là một làng chài ven biển Quỳnh Lưu. Cái hơi hướng
mặn mòi của khí hậu, thời tiết vùng biển đã “phả” vào tâm hồn nhà văn tương
lai: "Thời niên thiếu tôi có dịp sống gần gũi với những người dân chài quê
tôi, vài ba bận theo họ ra ngoài khơi đánh cá. Mục kích hình ảnh họ kề vai sát
cánh, vật lộn giữa sóng to gió cả, với một tinh thần dũng cảm ngoan cường, nhất
là trong bão tố. Cảm thấy trong tâm cảm họ ngoài sự bức thúc của sinh kế, còn
thấy phảng phất một ý niệm siêu hình (không thật tự giác) về cuộc đời con người,
về nhân sinh, vũ trụ” (Nhà văn Việt Nam hiện đại, NXB HNV, 2010). Quỳnh Lưu
trong không gian văn hóa xứ Nghệ là một vùng “địa linh nhân kiệt”, đất của văn
nhân từ Hồ Xuân Hương thời trung đại đến tận thời hiện đại với tên tuổi sáng
chói của Nguyễn Minh Châu - “người mở đường tinh anh” trong phong trào đổi mới
văn chương sau 1975. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nhà văn có mặt nơi
gian khổ ác liệt - chiến khu Bình Trị Thiên (Liên khu 4). Tất nhiên là nhà văn
gắn bó với núi rừng (“rừng che bộ đội rừng vây quân thù” như câu thơ của Tố Hữu).
Con đường đời và đường văn của ông là từ biển lên núi, rồi từ núi về chốn kinh
kỳ. Sau hòa bình (1954) nhà văn sống và viết ở Hà Nội - trung tâm chính trị,
văn hóa của cả nước. Thủ đô (trước sau vẫn là “nhất kinh kỳ nhì Phố Hiến”), bao
giờ cũng là nơi hội tụ, kết tinh, phát tỏa các giá trị văn hóa, tinh thần. Thời
kỳ kháng chiến chống Mỹ, nhà văn đã có mặt ở tuyến lửa (Hà Tĩnh, Quảng Bình),
không phải để chứng kiến mà thực sự trải nghiệm. Cuộc đời cầm bút của nhà văn
Bùi Hiển đúc rút cho chúng ta bài học về đặc thù của thung thổ văn hóa, căn cốt
văn hóa cần thiết hàng đầu đối với nghệ sỹ sáng tạo ngôn từ. Một nền văn chương
lớn, một nhà văn lớn phải tựa trên một nền tảng văn hóa lớn. Những năm học Quốc
học ở Vinh đã tích lũy và hun đúc phẩm chất văn hóa cho nhà văn tương lại.
Một “cây” truyện ngắn
Chúng tôi lạm dùng câu chữ của nhà văn Tô Hoài khi nói về
nhà văn Nguyễn Thành Long như là “một cây truyện ngắn”. Bùi Hiển khởi đầu nghiệp
văn bằng truyện ngắn Nằm vạ, đăng trên báo Ngày nay (cuối 1940), kèm lời giới
thiệu trang trọng của Thạch Lam, bậc đàn anh trong làng văn. Năm 1941, nhà xuất
bản Đời nay (một thương hiệu bấy giờ) đã in tập truyện ngắn đầu tay của Bùi Hiển
với tựa Nằm vạ. Trong công trình đồ sộ Nhà văn hiện đại (quyển Thượng, quyển Hạ,
xuất bản năm 1942), Vũ Ngọc Phan không hề ngẫu nhiên khi xếp sáng tác của Bùi
Hiển vào mục “Tiểu thuyết phong tục”. Nằm vạ là một truyện ngắn mới đọc lần đầu
có cảm giác nhà văn viết chơi chơi: người vợ giận chồng rồi nằm vạ, nhưng mãi rồi
đói, cũng chẳng thấy ai giải cứu nên cuối cùng cũng chào thua. Giọng văn dí dỏm,
hài hước khi tả cảnh người vợ tranh nhau với lũ chuột đói mấy lát khoai sống.
Nhà văn không đả kích, chế diễu nhân vật nằm vạ, trái lại dường như cúi xuống cảm
thông những con người dưới đáy, tưởng như tầm thường với lòng cảm thương chân
phác. Vũ Ngọc Phan nhận xét chính xác và tinh tế: “Riêng những truyện về phong
tục dân quê vùng Nghệ Tĩnh là những truyện hay. Những nhân vật của Bùi Hiển đều
dùng tiếng thổ âm làm cho những truyện của ông không giống truyện của một nhà
văn nào khác. Ngôn ngữ và cử chỉ của họ tạo nên một dấu ấn riêng, không ai nhầm
lẫn được (...). Hầu hết các truyện ngắn về xứ Nghệ của ông đều là những truyện
tả phong tục tính tình của dân chài xứ ấy” (Nhà văn hiện đại...). Nhân vật của
Bùi Hiển thường ẩn mình giữa tự nhiên, họ sống thầm lặng. Cũng có những nhân vật
ra đi (chết) bất chợt nhưng với nhà văn thì: “Âm dương không phân ranh giới rõ
ràng, cõi sống và cõi chết nương nhau vấn vít”. Đúng là có khi cách trở âm
/dương, nhưng lại cũng có khi không cách trở, trái lại “nương nhau vấn vít”.
Tôi cho rằng đó là cách nhà văn đi vào cõi bản thể, tâm linh của đời sống con
người.
Do khuôn khổ bài
viết nên chúng tôi không bình luận sâu và đủ về truyện ngắn Bùi Hiển trong khoảng
thời gian sau 1945 đến 1975. Bùi Hiển, nếu có thể nói, trở lại phát sáng nhờ
truyện ngắn ở giai đoạn sáng tác cuối. Sau 1975, nhà văn quay trở lại lối viết
“tìm vào nội tâm” (như cách Vũ Ngọc Phan đánh giá Thạch Lam trong công trình
Nhà văn hiện đại). Hai tập truyện ngắn giai đoạn này: Ý nghĩ ban mai (1980) và
Tâm tưởng (1985) bộc lộ cái “tạng văn” của Bùi Hiển - giàu chất chiêm nghiệm,
suy nghiệm sự sống, hướng tới đời sống thường nhật. Vẫn giữ được sự giàu có chất
đời mềm và chín, nhưng mỗi truyện bây giờ lại cứng cáp, vâm váp hơn nhờ vào
tính luận đề như một giàn giáo, giá đỡ tác phẩm. Chỉ riêng đọc các nhan đề truyện
ngắn thời kỳ này đã thấy cái ý vị, cái rường cột khác hẳn các giai đoạn trước:
Ý nghĩ ban mai, Tâm tưởng, Cái bóng cọc, Những con số một, Người từng điều khiển
được chiêm bao,... Với những sáng tác truyện ngắn sau 1975, Bùi Hiển đi sâu
khám phá “hiện thực tâm trạng” (thay vì là “hiện thực sự kiện”). Cấu trúc/cốt
truyện truyện ngắn giảm thiểu sự kiện, biến cố chuyển sang hướng khám phá thế
giới bên trong/ nội tâm/ tâm hồn/ tâm linh của con người thời hiện đại. Lẽ tự
nhiên truyện của ông đậm chất chiêm nghiệm, suy nghiệm, nghiền ngẫm hiện thực.
Tuy nhiên do đôi khi lộ liễu luận đề nên truyện mang dáng dấp truyện giáo huấn
(đặc tính này rất rõ trong truyện Nguyễn Khải, kiểu như Một người Hà Nội).
Lặng lẽ Bùi Hiển hay là một cá
tính sáng tạo
Nên ghi nhớ, tiếp xúc ban đầu của Bùi Hiển với văn chương
thế giới, không ai khác, chính là nhà truyện ngắn kỳ tài của nước Pháp A. Đô-đê
(A. Ddaudet). Đây là một nhà văn với phong cách trữ tình - tâm lý sâu sắc, tinh
tế và huyền diệu. Đọc tiếp sau đó là các văn hào khác như A. Gid, Mêrimê, S.
Maugham; các nhà văn Việt Nam thì ông riêng thích đọc Nguyên Hồng, Xuân Diệu,
Huy cận,... Trong xã hội học nghệ thuật cũng như tâm lý học sáng tác, người ta
chú ý vào “cái thuở ban đầu” của sự viết (anh thích đọc ai, anh thích viết về
cái gì, anh chọn lối viết nào). Cá tính sáng tạo (hay phong cách nghệ thuật)
không phải là cái gì nhất thành bất biến. Nó chu chuyển, tất nhiên. Nhưng dẫu
sao vẫn bảo lưu cái nét chính, căn bản, cái cốt lõi trường tồn để giúp phân biệt
nhà văn này với nhà văn khác. Chính nhà văn bộc bạch, muốn thành công trong
sáng tác thì: “Khi miêu tả, người viết phải bằng con mắt bên trong” (Vương Trí
Nhàn [sưu tập, biên soạn, dịch]: Sổ tay truyện ngắn, NXB Tác phẩm mới, 1980,
trang 20). Riêng tôi, rất chú ý đến cách diễn đạt của Bùi Hiển về sự viết của
nhà văn phải bằng “con mắt bên trong”. Ở đây có thể hiểu theo nhiều cách. Một
là, viết theo phương pháp “tìm vào nội tâm” như đã nói ở trên. Hai là, rất có
thể “ướm mình vào nhân vật mà viết” (tức giả định đặt mình vào vị trí nhân vật
mà ứng xử trong các tình huống không bình thường, không như ý muốn). Có lẽ,
theo tôi, Bùi Hiển thực hành viết bằng con đường trực diện/ trực tiếp/ ngắn nhất
“từ trái tim đến trái tim”; ba là, chỉ có thể viết thành công khi nhà văn “thấu
thị” đời sống và con người (bỏ qua cái hiện tượng, bề ngoài, nhất thời).
Nói đến Bùi Hiển là nói đến nhà văn chuyên tâm viết về
cái bình thường, về không chỉ tình người mà còn là tính người (“văn học là nhân
học” theo đúng nghĩa rộng của từ này). Tuy nhiên, có một khoảng thời gian trong
chiến tranh, Bùi Hiển cũng giống như nhiều nhà văn khác chú ý đến cái gọi là
“dĩ công vi thượng”, và mục đích chiến thắng của tất cả mọi hoạt động của mỗi
cá nhân cũng như cộng đồng. Đó cũng là thời kỳ, nếu có thể nói, văn chương và
nhà văn đã tự nguyện “hy sinh” chính mình.
Nói đến cá tính/ phong cách Bùi Hiển, tôi chú ý đến hai
nhân tố quan trọng là: giọng điệu và ngôn từ (chữ) của nhà văn. Buổi đầu trội
lên ngay giọng cảm thương (vì chủ yếu viết về những người lao đồng vạn chài quê
hương hay những viên chức bé nhỏ tội nghiệp làm công ăn lương chốn thị thành),
từ đó nó đặc trưng cho chất giọng Bùi Hiển dẫu sau này viết về hiện thực và con
người trong cách mạng và chiến tranh. Viết gì thì cũng ngân lên cái giọng cảm
thương, chia sẻ, an ủi. Đây là chất giọng của một “người hiền”, khác hẳn Vũ Trọng
Phụng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nam Cao,... những nhà văn hiện thực phê
phán tài danh. Bùi Hiển chỉ nhận mình là nhà văn hiện thực/ không phê phán
(!?). Ngôn từ nghệ thuật của Bùi Hiển giản dị đôi khi tưởng như đơn giản và mộc
mạc. Nhưng có thể nhà văn tuân thủ nguyên lý tối thượng “cái đẹp là sự giản dị”.
Sau này tôi nhận ra ở Nguyễn Minh Châu, người đồng hương với Bùi Hiển, cũng có
cái chất giọng cảm thương, lặng lẽ với đời, với người trong những sáng tác truyện
ngắn đặc sắc như Bến quê, Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Cỏ
lau, Chiếc thuyền ngoài xa, Khách ở quê ra...
Đọc Bùi Hiển, không thấy những tiếng vọng xã hội rộng lớn,
vang rền; không thấy những quyết đấu giai cấp quyết liệt và tàn khốc; không
nhìn thấy cái xấu trắng trợn đến độ khủng khiếp... như trong sáng tác của Vũ Trọng
Phụng, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan... Có vẻ như Bùi Hiển cứ nhẩn nha, thủ thỉ kể
những câu chuyện thường ngày, ít ai để ý nhưng khi được nhà văn “chạm bút” vào
thì tự nhiên lóe sáng, hiển hiện như dưới thanh thiên bạch nhật, thì lập tức
phơi mở bản chất.
Nếu nói “văn là người” thì đọc văn biết người Bùi Hiển -
đó là người sống an nhiên, khoan thai, tự tại, lạc quan, biết buông bỏ tham/
sân/ si, tiết chế ái/ ố/ hỷ/ nộ. Đã từng tiếp xúc với nhà văn Bùi Hiển, tôi thấy
an tâm, yên bình, thư thái, tin tưởng và có thể bộc bạch khi đứng trước ông.
Đôi lần tôi cứ trở lại thưởng thức cái nhã thú văn chương của Bùi Hiển, kiểu
như Nắng mới, một truyện thanh thoát, nhẹ nhõm, trong sáng tưởng như không thể
hơn: “Sinh tới vén riềm mở tung cửa sổ. Ánh sáng ùa tràn vào thành luồng lớn,
khiến chàng ngợp trong sóng vàng chói lói. Màu nắng vàng tươi, không nồng lắm
và trong hư như lọc; da trời xanh lơ lơ, thứ màu xanh e lệ của một thời tiết muốn
đẹp nhưng còn ngập ngừng. Những mái tranh, những khóm lá cho đến những nếp núi
biếc lượn ngoài xa tít, đều hiện ra với những hình sắc rõ rệt. Những thanh âm rộn
rã bay lên thinh không, tiếng người nói, tiếng trẻ con nô đùa đâu ở phía chùa
làng. Sinh nghe lạ tai. Có tiếng động khô khan của thân cây nào nứt nở, không
biết vì căng nhựa xuân hay vì phơi nắng mới. Thỉnh thoảng, tiếng guốc dập lộp cộp,
giòn giã trong ngõ hẻm khô ráo hay tiếng răng cào lê trên sân thóc rào rạo”
(Tuyển tập truyện ngắn hiện thực 1930-1945, NXB Văn học, 2003, trang 215-216).
Truyện này được viết năm 1939, đến nay đã tròn 80 năm, nhưng vẫn thấy rành rẽ
tiếng Việt trong tay các nhà văn tài năng trở nên đẹp đẽ, trong sáng, lộng lẫy,
đa nghĩa trong thế động và mở.
Kết luận
Một nền văn chương thực sự giàu có phải đa dạng về phong
cách/ giọng điệu/ cá tính sáng tạo. Nếu nổi bật lên ở phía trước là những cây
bút tài hoa với tinh thần và dũng khí “bất cộng đới thiên” với cái xấu, cái ác
như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng... họ đứng
ở hàng đầu cuộc đấu tranh vì cái đẹp bằng ngôn từ thì cũng cần có những người
thuộc “bè trầm”/ đứng ở hàng sau như Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Bùi Hiển, Thanh Tịnh,
Hồ Dzếnh... Nhưng dẫu thuộc bè nào, dẫu đứng ở hàng nào trong đội hình nghệ sỹ
ngôn từ thì điểm chung của họ cuối cùng vẫn là thờ phụng “chân - thiện - mỹ”, vẫn
là biến tác phẩm văn chương thành một vũ khí tinh thần vừa thanh cao vừa lợi hại
trong cuộc chiến đấu vì hai chữ CON NGƯỜI viết hoa.
B.V.T
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Truyện ngắn Việt Nam - Lịch sử, thi pháp, chân dung
(Phan Cự Đệ chủ biên), NXB Giáo dục, 2007
2. Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam [cuối thế kỷ XIX đến
1945], (Vũ Tuấn Anh - Bích Thu chủ biên), NXB Văn học, 2001
3. Từ điển tác gia - tác phẩm văn học Việt Nam dùng trong
nhà trường (Nguyễn Đăng Mạnh - Bùi Duy Tân - Nguyễn Như Ý chủ biên), NXB Đại học
Sư phạm, 2004
4. Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam (từ sau 1975) [ Mai
Hương chủ biên], NXB Giáo dục Việt Nam, 2010
5. Sổ tay truyện ngắn (Vương Trí Nhàn biên soạn), NXB Tác
phẩm mới, 1980
6. Bùi Việt Thắng: Bình luận truyện ngắn (phê bình - tiểu
luận), NXB Văn học, 1999
7. Bùi Việt Thắng: Truyện ngắn - Những vấn đề lý thuyết
và thực tiễn thể loại (chuyên luận), NXB ĐHQG Hà Nội, 2000.
8. Đinh Trí Dũng - Bùi Việt Thắng: Truyện ngắn Việt Nam
hiện đại (giáo trình cao học), NXB Đại học Vinh, 2018.