Thứ 6 - 26/02/2016
Màu đỏ Màu xanh nước biển Màu vàng Màu xanh lá cây
CHÀO MỪNG 70 NĂM CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ (1954 - 2024)
“Rực rỡ sắc mai vàng, mừng Đảng, mừng Xuân, mừng Đất nước vươn cao tầm đổi mới; Thắm tươi màu cờ đỏ, chúc Đoàn, chúc Hội, chúc Đồng Nai nỗ lực để thành công" (Dương Thanh)
Những năm sơ tán

 

Viết ngắn của Lan Hương
(Nguồn: Tạp chí Văn nghệ Đồng Nai số 42)


5/8/1964, Mỹ bất ngờ ném bom xuống thành phố Nam Định yêu dấu của chúng tôi, xé tan cuộc sống yên lành, mở đầu cho cuộc chiến tranh bắn phá miền Bắc lần thứ nhất. Tiếng còi tầm êm ả báo hiệu giờ tan ca của các công nhân Nhà máy Dệt – máy Tơ đã thành còi báo động ghê rợn kèm lời thông báo trên loa phát thanh: “Đồng bào chú ý! Đồng bào chú ý! Máy bay địch cách thành phố...”. Vỉa hè được đào sâu xuống đặt ống cống lớn làm hầm tránh bom cá nhân cho người đi đường và trong mỗi gia đình cũng biến gầm cầu thang, gầm giường thành nơi tránh hòn tên mũi đạn. Nhưng để ổn định cuộc sống thời chiến lâu dài hơn, thành phố chỉ có lực lượng quân đội, dân quân tự vệ và lực lượng lao động cần ở lại thành phố vừa sản xuất (trong các nhà máy, xí nghiệp) vừa chiến đấu, còn phần lớn người dân lao động và học sinh các cấp sơ tán về nông thôn – nơi không phải là mục tiêu oanh tạc của máy bay Mỹ. 

Gia đình tôi bắt đầu chia năm xẻ bảy, bố và anh trai lớn đi theo cơ quan, mẹ ở lại thành phố tham gia tổ phụ nữ phục vụ chiến đấu, các anh kế, người đi bộ đội, người đi học chuyên nghiệp (tốt nghiệp xong anh cũng đi bộ đội luôn), còn 6 chị em tôi theo bà ngoại về thôn Giáp Nhất, xã Quang Trung, huyện Vụ Bản, cách thành phố khoảng hơn 10 km – nơi hợp tác xã may mặc của bà sơ tán, không phải quê tôi.  

Đội kịch 9B cùng thầy chủ nhiệm.jpg
Đội kịch 9B cùng thầy Chủ nhiệm (ảnh ĐLH)

Thôn chúng tôi ở, đất chật người đông, dân có thêm nghề rèn, nhà cửa san sát nhưng họ cực kỳ rộng lòng, cưu mang, đùm bọc dân sơ tán đúng nghĩa là “đồng bào”. Họ sẵn sàng nhường cho chúng tôi một phần không gian trong ngôi nhà nhỏ của mình mà không lấy một đồng xu cắc bạc, cho chúng tôi dùng chung cả chất đốt. Dân địa phương và dân sơ tán sống hòa hợp, đầm ấm như những người bà con ruột thịt. Bà cháu tôi được cụ chủ nhà nhường cho 1 buồng có kê sẵn một chiếc giường đôi nhưng ngang chỉ có 1,5m. 5 bà cháu nằm ngang, xếp lớp trên chiếc giường đó. Còn 2 em trai tôi ngủ chung với 2 cháu trai cụ chủ nhà ở gian ngoài. Điện không có, mùa đông còn đỡ chứ mùa hè thì nóng khủng khiếp. Bà thay cha mẹ chăm lo cho chúng tôi. Bây giờ nghĩ lại càng thương bà nhiều hơn. Năm đứa cháu cả gái lẫn trai lít nhít chứ có ít đâu. Tính bà vui vẻ, hào phóng nên ở đâu cũng được dân làng quý mến (bà cháu tôi đổi nhà 3 lần, càng ngày càng được ở rộng hơn). Đến mùa khoai, lạc (đậu phộng), bà con hàng xóm còn mang sang biếu bà ít khoai, lạc mới rỡ lấy thảo. Ngày đó, trẻ con ngoan thật, xa cha mẹ, cuộc sống vật chất khó khăn, tiện nghi thiếu thốn, vẫn chăm học chăm làm. Chị em chúng tôi học ngay trường cấp 1, cấp 2 của xã, đứa chưa đi học thì ở nhà với bà (bà nhận hàng làm ở nhà). Chúng tôi nhanh chóng thích nghi với cuộc sống mới, chả thấy khổ gì cả.

Đi học phải đội mũ rơm, lưng đeo nùm rơm*, áo quần phải tối màu, nếu áo sáng màu phải nhuộm. Nền lớp đào sâu xuống mặt đất, có đường hào dẫn ra hầm chữ A, các lớp nằm rải rác trong khu dân cư. Các thầy cô chạy tiết dạy thật vất vả. Ấy thế mà suốt những năm đi học tôi chưa thấy thầy cô nào thờ ơ với học sinh. Ngược lại quan hệ thầy – trò, giáo viên – phụ huynh gần gũi, thân thiết, nhiều người gắn bó đến tận bây giờ. Ở những lớp cuối cấp, thầy cô còn đến tận nhà học sinh kiểm tra việc tự học. Thầy cô coi học trò như con cháu, như em của mình. Tối, chúng tôi phải học bằng đèn dầu, gọi là đèn Hoa kỳ. Ở trong nhà nhưng đèn vẫn phải có cái chụp, che bớt ánh sáng. Khó khăn là thế nhưng thày trò vẫn dạy và học nghiêm chỉnh, cuối học kỳ, cuối năm trường cấp 2 cũng như cấp 3 vẫn tổ chức văn nghệ, “ Vẫn vui vẫn hát những câu rộn ràng” (Trần Đăng Khoa).

Sau giờ học, giống như hồi trước chiến tranh, ở đây chị em chúng tôi vẫn tranh thủ làm thêm nghề phụ: giúp bà thùa khuy đính nút, dọc vải màn (mùng) cho các cô trong tổ may. Đến bữa, tùy theo sức của mình, chị em bảo nhau đứa rửa bát buổi sáng, đứa buổi chiều. Tôi là chị lớn còn giúp bà nấu cơm, giặt giũ cho các em nhỏ. Bố tôi cứ 1-2 tuần/ 1 lần từ thành phố đạp xe đạp tới thăm bà và các con, tiếp tế cho bà cháu khi dầu hỏa, lúc gạo, bột mì, bánh mì Ba Lan ( Nhà máy chuyên sản xuất bánh mì do Ba Lan giúp đỡ xây dựng), chai mắm... mua theo tem phiếu. Ông không quên đem món quà tinh thần nữa: báo chí. Hồi đó, ngoài báo Thiếu niên tiền phong, Văn nghệ, bố mẹ tôi còn gửi đều đặn Tạp chí văn học, Toán học tuổi trẻ cho chúng tôi.  Ông tới một vài tiếng rồi lại hối hả đạp đi ngay. 

Nhờ có những năm sơ tán này mà tôi mới được biết bao nhiêu thứ, được mở mang tầm mắt, được đắm mình trong vẻ đẹp của thiên nhiên: tận mắt thấy cánh đồng lúa đương thì con gái xanh mướt, mượt mà; thấy “bông lúa cuốn câu, con trâu ra đồng” (thơ Trần Đăng Khoa) - ở thành phố chỉ biết con bò kéo xe; tự tay vuốt “một sợi rơm vàng, hai sợi vàng rơm” (lời bài hát của thiếu nhi); thưởng thức tiếng gà gáy “Ò...ó...o..., gọi ông trời nhô lên rửa mặt”; tiếng lợn kêu ụt ịt...; biết phân biệt cối xay, cối giã, cái giần cái sàng...để hiểu hơn câu thơ của Bác” Gạo đem vào giã bao đau đớn...”, hiểu thêm thế nào là “lọt sàng xuống nia”, “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”; biết ngơ ngẩn trước “mưa xuân phơi phới bay/ Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy” (Nguyễn Bính), ngơ ngẩn giữa không gian ướp đầy hương hoa bưởi, hoa chanh tinh khiết, ngất ngây giữa “thoang thoảng hương lúa lên đòng, thơm như sữa một người mẹ trẻ” (Nguyễn Trung Thành), khoan khoái đi giữa đường làng rợp bóng tre xanh. Và, tôi cũng biết thêm về cái lạnh như cắt da cắt thịt của gió rít mùa đông, về cái nắng như đổ lửa giữa mùa hè nóng bỏng “nước như ai nấu/ Chết cả cá cờ/ Cua ngoi lên bờ” (Trần Đăng Khoa) trên đường đi học qua những cánh đồng. Tôi còn biết về cuộc sống của những người nông dân chân lấm tay bùn, bán mặt cho đất bán lưng cho trời, hai sương một nắng nhưng tấm lòng thật thơm thảo; biết về những người bạn mới chân chất, mộc mạc, lao động giỏi. Chúng tôi bổ sung cho nhau, học trò thành phố học khá hơn, tham gia các hoạt động văn nghệ thể thao sôi nổi hơn, đọc nhiều hơn; học sinh nông thôn kiến thức thực tế rộng hơn, lanh lợi hơn, khỏe mạnh, rắn chắc hơn, biết làm nhiều việc hơn, quan tâm giúp đỡ bạn bè một cách vô tư. Nhớ những buổi chiều phải ở lại trường lao động, những đứa xa nhà mang theo món gì đó để ăn chung lúc nghỉ trưa. Nào khoai lang luộc, lạc luộc – đặc sản với dân thành phố; nào bột mì rán – món lạ miệng với các bạn nông thôn; nào xôi, nào cơm nắm muối vừng...Vui như bữa liên hoan. 

Xa thành phố, không nghe tiếng còi báo động nhưng chúng tôi vẫn nghe tiếng gầm rú của máy bay, tiếng bom nổ, thấy khói bom đen xì và đôi khi nhìn thấy cả máy bay rơi, ban tối thấy pháo sáng...Nhìn về hướng thành phố xót xa bao nhiêu lại căm hận giặc Mỹ bấy nhiêu.

Năm 1968, Mỹ ngừng ném bom không điều kiện, mấy bà cháu lại trở về thành phố sum họp gia đình. Riêng tôi còn một năm học nữa là tốt nghiệp phổ thông nên ở lại trọ học gần trường cấp 3 đến 1970. 

Cảm ơn những tháng ngày gian khổ, cảm ơn vùng đất xa lạ đã trở thành thân quen, cảm ơn những người dân hiền như đất đã nuôi tôi lớn khôn cả phần xác lẫn phần hồn. Sắp tới đây, cuối tháng 10/2020 này, khóa bạn học chúng tôi, từ khắp nơi trên đất nước rủ nhau về trường cũ kỉ niệm “Nửa thế kỉ bạn và tôi” như một sự tri ân thầy cô và mảnh đất Vụ Bản yêu quý. Cả dân tộc đã đi qua những năm tháng chiến tranh bình thản như thế đấy.

L.H

 

Các tin khác

    There are no items to show in this view.
Object reference not set to an instance of an object.

Liên kết webiste

Thăm dò ý kiến

Đánh giá về trang thông tin điện tử Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đồng Nai

 

Số lượt truy cập

Trong ngày:
Tất cả:

HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT ĐỒNG NAI
Địa chỉ: 30 Đường Nguyễn Ái Quốc, P.Tân Tiến, Thành phố Biên Hoà, Đồng Nai
Điện thoại : 02513.822.992; Email: hvhnt@dongnai.gov.vn
Chịu trách nhiệm xuất bản: NSND. Đạo diễn Giang Mạnh Hà – Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đồng Nai.
Trưởng Ban biên tập: Trần Thu Hằng​​