(Nguồn: Tạp chí Văn nghệ Đồng Nai số 42)
5/8/1964, Mỹ bất
ngờ ném bom xuống thành phố Nam Định yêu dấu của chúng tôi, xé tan cuộc sống
yên lành, mở đầu cho cuộc chiến tranh bắn phá miền Bắc lần thứ nhất. Tiếng còi
tầm êm ả báo hiệu giờ tan ca của các công nhân Nhà máy Dệt – máy Tơ đã thành
còi báo động ghê rợn kèm lời thông báo trên loa phát thanh: “Đồng bào chú ý! Đồng
bào chú ý! Máy bay địch cách thành phố...”. Vỉa hè được đào sâu xuống đặt ống cống
lớn làm hầm tránh bom cá nhân cho người đi đường và trong mỗi gia đình cũng biến
gầm cầu thang, gầm giường thành nơi tránh hòn tên mũi đạn. Nhưng để ổn định cuộc
sống thời chiến lâu dài hơn, thành phố chỉ có lực lượng quân đội, dân quân tự vệ
và lực lượng lao động cần ở lại thành phố vừa sản xuất (trong các nhà máy, xí
nghiệp) vừa chiến đấu, còn phần lớn người dân lao động và học sinh các cấp sơ
tán về nông thôn – nơi không phải là mục tiêu oanh tạc của máy bay Mỹ.
Gia đình tôi bắt
đầu chia năm xẻ bảy, bố và anh trai lớn đi theo cơ quan, mẹ ở lại thành phố
tham gia tổ phụ nữ phục vụ chiến đấu, các anh kế, người đi bộ đội, người đi học
chuyên nghiệp (tốt nghiệp xong anh cũng đi bộ đội luôn), còn 6 chị em tôi theo
bà ngoại về thôn Giáp Nhất, xã Quang Trung, huyện Vụ Bản, cách thành phố khoảng
hơn 10 km – nơi hợp tác xã may mặc của bà sơ tán, không phải quê
tôi.
Đội kịch 9B cùng thầy Chủ nhiệm (ảnh ĐLH)
Thôn chúng tôi ở,
đất chật người đông, dân có thêm nghề rèn, nhà cửa san sát nhưng họ cực kỳ rộng
lòng, cưu mang, đùm bọc dân sơ tán đúng nghĩa là “đồng bào”. Họ sẵn sàng nhường
cho chúng tôi một phần không gian trong ngôi nhà nhỏ của mình mà không lấy một
đồng xu cắc bạc, cho chúng tôi dùng chung cả chất đốt. Dân địa phương và dân sơ
tán sống hòa hợp, đầm ấm như những người bà con ruột thịt. Bà cháu tôi được cụ
chủ nhà nhường cho 1 buồng có kê sẵn một chiếc giường đôi nhưng ngang chỉ có
1,5m. 5 bà cháu nằm ngang, xếp lớp trên chiếc giường đó. Còn 2 em trai tôi ngủ
chung với 2 cháu trai cụ chủ nhà ở gian ngoài. Điện không có, mùa đông còn đỡ
chứ mùa hè thì nóng khủng khiếp. Bà thay cha mẹ chăm lo cho chúng tôi. Bây giờ
nghĩ lại càng thương bà nhiều hơn. Năm đứa cháu cả gái lẫn trai lít nhít chứ có
ít đâu. Tính bà vui vẻ, hào phóng nên ở đâu cũng được dân làng quý mến (bà cháu
tôi đổi nhà 3 lần, càng ngày càng được ở rộng hơn). Đến mùa khoai, lạc (đậu phộng),
bà con hàng xóm còn mang sang biếu bà ít khoai, lạc mới rỡ lấy thảo. Ngày đó,
trẻ con ngoan thật, xa cha mẹ, cuộc sống vật chất khó khăn, tiện nghi thiếu thốn,
vẫn chăm học chăm làm. Chị em chúng tôi học ngay trường cấp 1, cấp 2 của xã, đứa
chưa đi học thì ở nhà với bà (bà nhận hàng làm ở nhà). Chúng tôi nhanh chóng
thích nghi với cuộc sống mới, chả thấy khổ gì cả.
Đi học phải đội
mũ rơm, lưng đeo nùm rơm*, áo quần phải tối màu, nếu áo sáng màu phải nhuộm. Nền
lớp đào sâu xuống mặt đất, có đường hào dẫn ra hầm chữ A, các lớp nằm rải rác
trong khu dân cư. Các thầy cô chạy tiết dạy thật vất vả. Ấy thế mà suốt những
năm đi học tôi chưa thấy thầy cô nào thờ ơ với học sinh. Ngược lại quan hệ thầy
– trò, giáo viên – phụ huynh gần gũi, thân thiết, nhiều người gắn bó đến tận
bây giờ. Ở những lớp cuối cấp, thầy cô còn đến tận nhà học sinh kiểm tra việc tự
học. Thầy cô coi học trò như con cháu, như em của mình. Tối, chúng tôi phải học
bằng đèn dầu, gọi là đèn Hoa kỳ. Ở trong nhà nhưng đèn vẫn phải có cái chụp,
che bớt ánh sáng. Khó khăn là thế nhưng thày trò vẫn dạy và học nghiêm chỉnh,
cuối học kỳ, cuối năm trường cấp 2 cũng như cấp 3 vẫn tổ chức văn nghệ, “ Vẫn
vui vẫn hát những câu rộn ràng” (Trần Đăng Khoa).
Sau giờ học, giống
như hồi trước chiến tranh, ở đây chị em chúng tôi vẫn tranh thủ làm thêm nghề
phụ: giúp bà thùa khuy đính nút, dọc vải màn (mùng) cho các cô trong tổ may. Đến
bữa, tùy theo sức của mình, chị em bảo nhau đứa rửa bát buổi sáng, đứa buổi chiều.
Tôi là chị lớn còn giúp bà nấu cơm, giặt giũ cho các em nhỏ. Bố tôi cứ 1-2 tuần/
1 lần từ thành phố đạp xe đạp tới thăm bà và các con, tiếp tế cho bà cháu khi dầu
hỏa, lúc gạo, bột mì, bánh mì Ba Lan ( Nhà máy chuyên sản xuất bánh mì do Ba
Lan giúp đỡ xây dựng), chai mắm... mua theo tem phiếu. Ông không quên đem món
quà tinh thần nữa: báo chí. Hồi đó, ngoài báo Thiếu niên tiền phong, Văn nghệ,
bố mẹ tôi còn gửi đều đặn Tạp chí văn học, Toán học tuổi trẻ cho chúng
tôi. Ông tới một vài tiếng rồi lại hối hả đạp đi ngay.
Nhờ có những năm
sơ tán này mà tôi mới được biết bao nhiêu thứ, được mở mang tầm mắt, được đắm
mình trong vẻ đẹp của thiên nhiên: tận mắt thấy cánh đồng lúa đương thì con gái
xanh mướt, mượt mà; thấy “bông lúa cuốn câu, con trâu ra đồng” (thơ Trần Đăng
Khoa) - ở thành phố chỉ biết con bò kéo xe; tự tay vuốt “một sợi rơm vàng, hai
sợi vàng rơm” (lời bài hát của thiếu nhi); thưởng thức tiếng gà gáy
“Ò...ó...o..., gọi ông trời nhô lên rửa mặt”; tiếng lợn kêu ụt ịt...; biết phân
biệt cối xay, cối giã, cái giần cái sàng...để hiểu hơn câu thơ của Bác” Gạo đem
vào giã bao đau đớn...”, hiểu thêm thế nào là “lọt sàng xuống nia”, “Đi một
ngày đàng, học một sàng khôn”; biết ngơ ngẩn trước “mưa xuân phơi phới bay/ Hoa
xoan lớp lớp rụng vơi đầy” (Nguyễn Bính), ngơ ngẩn giữa không gian ướp đầy
hương hoa bưởi, hoa chanh tinh khiết, ngất ngây giữa “thoang thoảng hương lúa
lên đòng, thơm như sữa một người mẹ trẻ” (Nguyễn Trung Thành), khoan khoái đi
giữa đường làng rợp bóng tre xanh. Và, tôi cũng biết thêm về cái lạnh như cắt
da cắt thịt của gió rít mùa đông, về cái nắng như đổ lửa giữa mùa hè nóng bỏng
“nước như ai nấu/ Chết cả cá cờ/ Cua ngoi lên bờ” (Trần Đăng Khoa) trên đường
đi học qua những cánh đồng. Tôi còn biết về cuộc sống của những người nông dân
chân lấm tay bùn, bán mặt cho đất bán lưng cho trời, hai sương một nắng nhưng tấm
lòng thật thơm thảo; biết về những người bạn mới chân chất, mộc mạc, lao động
giỏi. Chúng tôi bổ sung cho nhau, học trò thành phố học khá hơn, tham gia các
hoạt động văn nghệ thể thao sôi nổi hơn, đọc nhiều hơn; học sinh nông thôn kiến
thức thực tế rộng hơn, lanh lợi hơn, khỏe mạnh, rắn chắc hơn, biết làm nhiều việc
hơn, quan tâm giúp đỡ bạn bè một cách vô tư. Nhớ những buổi chiều phải ở lại
trường lao động, những đứa xa nhà mang theo món gì đó để ăn chung lúc nghỉ
trưa. Nào khoai lang luộc, lạc luộc – đặc sản với dân thành phố; nào bột mì rán
– món lạ miệng với các bạn nông thôn; nào xôi, nào cơm nắm muối vừng...Vui như
bữa liên hoan.
Xa thành phố,
không nghe tiếng còi báo động nhưng chúng tôi vẫn nghe tiếng gầm rú của máy
bay, tiếng bom nổ, thấy khói bom đen xì và đôi khi nhìn thấy cả máy bay rơi,
ban tối thấy pháo sáng...Nhìn về hướng thành phố xót xa bao nhiêu lại căm hận
giặc Mỹ bấy nhiêu.
Năm 1968, Mỹ ngừng
ném bom không điều kiện, mấy bà cháu lại trở về thành phố sum họp gia đình.
Riêng tôi còn một năm học nữa là tốt nghiệp phổ thông nên ở lại trọ học gần trường
cấp 3 đến 1970.
Cảm ơn những
tháng ngày gian khổ, cảm ơn vùng đất xa lạ đã trở thành thân quen, cảm ơn những
người dân hiền như đất đã nuôi tôi lớn khôn cả phần xác lẫn phần hồn. Sắp tới
đây, cuối tháng 10/2020 này, khóa bạn học chúng tôi, từ khắp nơi trên đất nước
rủ nhau về trường cũ kỉ niệm “Nửa thế kỉ bạn và tôi” như một sự tri ân thầy cô
và mảnh đất Vụ Bản yêu quý. Cả dân tộc đã đi qua những năm tháng chiến tranh
bình thản như thế đấy.
L.H