Bài viết của Hồng Ngọc
Nguồn: Tạp chí Văn nghệ Đồng Nai số 43
Năm 1969. Mỹ leo
thang đánh phá miền Bắc. Người dân Hà Nội đổ về những vùng nông thôn còn yên
bình, chưa bị máy bay Mỹ oanh tạc. Gia đình tôi cũng sơ tán về một làng nhỏ thuộc
tỉnh Hải Dương. Một ngôi làng cổ kính xinh đẹp có lũy tre bao quanh. Đường làng
lát gạnh nghiêng, tuy đôi chỗ gạch đã bị tróc, nhưng con đường uốn lượn mềm mại
vẫn rất nên thơ. Một cây đa cổ thụ cành lá sum suê trùm bóng mát lên cái ao lớn
giữa làng, những bậc thang dẫn xuống ao cũng lát gạch nghiêng. Bây giờ người ta
gọi những cái ao như thế là ao tù, nhưng hồi ấy, với đứa trẻ thành phố như tôi,
mùa hè được tắm ở cái ao nước trong như lọc, nhìn rõ những sợi rong đuôi chó,
những chú cá cờ bơi lội tung tăng thật không gì thích bằng.
Cái làng chúng
tôi đến đất đai màu mỡ, ngoài cấy lúa bà con trồng ngô, trồng khoai lang, khoai
tây, cà chua. Thứ gì cũng tốt tươi, ngon lành. Chỉ phải cái tới mùa thu hoạch,
nông sản chẳng biết tiêu thụ đi đâu. Cả làng lúc nào cũng trực chờ xe ô tải từ
Hà Nội về lấy hàng, mang lên thành phố. Hễ có tiếng còi ô tô toe toe là tất cả
như bừng tỉnh. Nhà nhà vội gánh cà chua, su hào, khoai tây chạy ào ra, hy vọng
sẽ cân được hàng và được nhận những đồng tiền mồ hôi nước mắt. Than ôi, số hàng
nông sản bán được chẳng bao nhiêu, nên nhà nào cũng tiu nghỉu gánh về. Ngày ấy
công nghiệp chế biến nông sản gần như chưa có. Để vớt vát lại công sức đổ ra,
bà con làm tương cà chua, đóng vào chai, đổ lên trên một lớp mỡ, để giành ăn dần.
Người dân nơi
gia đình tôi sơ tán rất hiền hòa, thân thiện. Bọn trẻ trong làng rủ anh em tôi
đi dỡ khoai, nhặt giá đỗ, hái rau dại ngoài đồng. Chúng bày cho tôi biết những
chỗ đất nứt nẻ trên mặt luống khoai sẽ có nhiều củ và củ to. Qủa nhiên là vậy
và tôi cảm thấy vô cùng thích thú. Có đứa còn dạy anh em tôi biết cách ghìm, rê
dắt dây câu khi câu tôm trong ao, cách thả diều sao cho bay thật cao. Vui nhất
là những tối thứ bảy, có văn nghệ. Trò chơi phổ biến lúc bấy giờ là bịt mắt bắt
dê, múa xòe hoa và đứng thành vòng tròn, hát tập thể. Tôi còn nhớ mang máng một
bài hát có những ca từ như: “Dân Liên Xô vui hát trên đồng hoa… Đây bao la đồng
xanh mượt mà… Cất tiếng hát cuộc đời ấm no… ”. Trong lúc mọi người vừa hát vừa
vỗ tay, bên trong vòng tròn một chị hoặc một anh sẽ nhảy chân sáo vòng quanh, nếu
thích ai đó, chị hay anh sẽ nắm tay người ấy cùng nhảy chân sáo rồi buông tay ra,
đứng vào vòng tròn, người mới sẽ nhảy tiếp. Cứ thế, cuộc vui kéo dài trong niềm
hoan hỉ đến tận khuya.
Nhịp sống thanh
bình, êm ả của làng quê đôi lúc cũng bị phá vỡ vì một sự cố. Một cặp vợ chồng
trong xóm cãi nhau. Bà vợ gọi theo tên chồng là Tươi nhưng cả vợ lẫn chồng chẳng
những không “tươi” mà còn cằn cỗi, quắt queo như rau cải phơi nắng. Nguyên do
vì bà vợ quá mắn con. Bảy cô con gái. Con đông như bầy mối, lại một bề nên ông
chồng bất mãn sinh nát rượu. Thời đó rượu hiếm, người uống rượu cũng hiếm. Chẳng
hiểu sao ông Tươi vẫn xoay được món “quốc lủi” nhắm với lòng lợn mắm tôm. Khi
ngấm hơi men, ông xa xả chửi vợ vì tội… không biết đẻ. Bà vợ cũng chẳng vừa. Bà
xắn tay áo, nhảy thách lên, xỉa ngón tay vào mặt chồng “mồ tổ thằng Tươi. Làm hại
đời bà. Vì mày mà bà không mọc mũi sủi tăm lên được”. Mỗi lần họ gấu ó, bọn trẻ
chúng tôi thập thò đứng sau vách nhìn trộm. Vừa sợ, vừa thấy… vui. Nhưng về
sau, chắc được làng “quán triệt” nên những cuộc khẩu chiến của hai vợ chồng bà
Tươi giảm hẳn.
Mùa hè năm ấy, mẹ
tôi ngã bệnh. Tôi còn ngây ngô, chưa hiểu bệnh tật của mẹ. Chỉ nghe bố nói, tôi
phải lên bệnh viện chăm sóc mẹ, vì bố bận công tác.
Bệnh viện mà mẹ
tôi chữa trị thuộc huyện Cẩm Giàng. Mỗi ngày, tôi tha thẩn chơi một mình ở cái
sân rộng trước phòng bệnh, để còn nghe mẹ gọi. Tôi không nhớ rõ những ngày ở bệnh
viện tôi ngủ ở đâu nhưng lại nhớ rất rõ những bữa cơm có… thịt ngan. Những miếng
thịt ngan xắt mỏng, to bản, kho gừng. Dĩ nhiên, được ăn cơm với thịt ngan thì
quá tuyệt, và tôi thấy cuộc sống ở bệnh viện tuy buồn nhưng cũng không đến nỗi
tệ.
Đầu giờ chiều
hôm đó, một cô y tá đến phòng bệnh bảo mẹ tôi chuẩn bị để vào… phòng mổ. Tôi
nghe mà sợ. Không hiểu sao, tôi cứ nghĩ hễ bị mổ tức là… mổ bụng, và điều đó
cũng đáng sợ gần như là chết.
Chừng bảy giờ tối,
một chiếc băng ca đưa người vào phòng bệnh của mẹ tôi. Trên băng ca là một phụ
nữ hai mắt nhắm nghiền. Việc đầu tiên là tôi… òa lên khóc. Tôi nhìn thấy hai
bên tai của người ấy có đeo khuyên. Một đôi khuyên vàng kiểu cổ, bám chặt vào
hai dái tai, chính là đôi khuyên của mẹ tôi. Ồ. Cháu nhìn xem nào, đâu phải mẹ.
Nín đi. Cô y tá hồi chiều nói. Tôi nín tắp và định thần nhìn kỹ. Hóa ra người
đó không phải mẹ tôi. Nhưng chỉ nửa giờ sau, mẹ tôi cũng được đưa về. Mẹ nằm
thiêm thiếp trên băng ca nhưng tôi quên bẵng vụ… khóc, vì phải răm rắp làm theo
những chỉ dẫn của y tá.
Công việc đáng sợ
nhất hàng ngày tôi phải làm ở bệnh viện là mang quần áo của mẹ đi giặt. Vì bệnh
viện không có đồng phục cho bệnh nhân. Nơi giặt là cái ao nhỏ, có rất nhiều bèo
tây. Tôi phải lội xuống ao, lấy tay gạt bèo ra, vừa nhúng quần áo của mẹ xuống
nước đã thấy lũ đỉa loi ngoi tìm đến. Chúng rất nhạy với mùi máu nên lao tới
như lá tre, làm tôi khiếp hãi. Nhưng tôi không thể không giặt quần áo cho mẹ. Vậy
nên tôi vò xà phòng trên bờ rồi xuống ao xả thật nhanh, sao cho không một chú đỉa
nào bám được vào bắp chân tôi. Sẽ mãi mãi mẹ tôi không bao giờ biết được rằng mỗi
lần đi giặt cho mẹ, tim tôi dội thình thịch, tôi sợ đỉa đến muốn bỏ về và đã phải
nỗ lực hết sức để chế ngự nỗi sợ. Là con em cán bộ công chức, tôi chỉ biết bỏ
quần áo bẩn vào chậu cho mẹ giặt chứ chưa khi nào giặt đồ cho ai, bởi vậy mà
tôi rất tự hào vì sự “người lớn” của mình.
Con đường ra cái
ao tôi giặt quần áo cho mẹ tình cờ lại ngang qua phòng sinh của bệnh viện. Một lần,
vì nghe tiếng kêu la nên tôi tò mò lại gần, ngó qua cửa sổ. Đập vào mắt tôi là
một người phụ nữ nằm trên bàn, đang ra sức… rặn đẻ. Chị ta thở è è, rên rỉ, thi
thoảng lại kêu lên đau đớn. Chị hộ sinh liên tục dỗ dành, động viên sản phụ. Bỗng
thình lình, một tiếng oe cất lên, the thé. Chị hộ sinh reo to. Ra rồi. Thằng
cu. Thì ra, đứa trẻ đã tọt ra ngoài. Trong tay chị hộ sinh nom nó trắng bợt,
cái mông tí xíu dúm lại. Nhoáng cái, cu cậu đã được chị lau sạch nhớt và được bọc
trong lớp tã trắng. Gương mặt của người mẹ sáng bừng lên và giãn hẳn ra trong
niềm thanh thản khó tả. Thật kỳ diệu, mới vài phút trước, chú bé sơ sinh trần
trụi, trơn nhãy như một con ếch, nhưng giờ nó đã he hé cái miệng nhỏ xinh, cái
lưỡi hồng hồng đưa qua đưa lại. Lần đầu tiên chứng kiến sự ra đời của một “con
người” trong tôi dâng lên cảm xúc kỳ lạ, vừa sợ hãi, vừa lâng lâng vui sướng,
như thể chính tôi đã tạo ra điều phi thường ấy. Và tôi chợt thấy yêu thương, biết
ơn bố mẹ tôi hơn. Ngày xưa tôi cũng từng như đứa trẻ kia, xấu xí, nhăn nhúm
nhưng hạnh phúc vì được bảo bọc, yêu thương trong vòng tay cha mẹ.
Sau này lớn lên,
tôi mới biết hôm ở bệnh viện Cẩm Giàng, đúng như tôi nghĩ, mẹ tôi bị mổ bụng, để
cắt cái dạ con bị sa vì sinh đẻ nhiều.
Gia đình tôi chỉ
ở nơi sơ tán hai năm, rồi về lại Hà Nội. Hai năm ở nơi sơ tán, tôi học được nhiều
kỹ năng, biết rung cảm trước cái đẹp, biết sẻ chia với đồng loại. Nhất là tôi
đã vô tình chứng kiến nỗi đau xé thịt và niềm vui to lớn của người mẹ trẻ đã
trao cho con sự sống. Điều đó khiến tôi biết trân trọng, nâng niu hơn những gì
tạo hóa và cuộc đời ban tặng cho mình…
H.N