Bài viết của Lê Đình Thảo
Để làm rõ vấn đề Đảng
Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng, cần phân tích làm
rõ bản chất cách mạng, khoa học của học thuyết Mác - Lênin và sự vận dụng sáng
tạo học thuyết ấy vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, được
thể hiện trong hệ thống tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng thời nhận diện
một số quan điểm sai trái mà các thế lực thù địch, phản động đang tiến hành
phản bác, nhằm phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Qua đó đề ra phương hướng để nghiên cứu, vận dụng, phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện hoàn cảnh của nước ta,
nhằm phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
1/- Chủ
nghĩa Mác - Lênin là học thuyết khoa học, cách mạng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin
gồm 3 bộ phận cấu thành: Triết học, Kinh tế
học chính trị và Chủ nghĩa xã hội khoa học.
Triết
học Mác- Lênin: Nghiên cứu sự hình thành, phát triển của triết học Mác
cho ta thấy, sự ra đời của triết học Mác là quá trình tất yếu hợp quy luật, chứ
không phải là trào lưu biệt lập nằm ngoài dòng chảy của nền văn minh nhân loại.
Triết học Mác là sự kế thừa, đồng thời
là sự phát triển tiếp tục và là kết quả của sự cải biến cách mạng toàn bộ thành
tựu của tư duy triết học trước đó. Mác đã khắc phục được phép biện chứng trong
cái vỏ duy tâm thần bí của Hêghen và tính siêu hình trong chủ nghĩa duy vật của
Phoiơbắc, đề cập đến nội dung này, Mác viết "Phương pháp biện chứng của tôi không những khác phương pháp của Hêghen
về cơ bản, mà còn đối lập với phương pháp ấy nữa" (1). Nội dung triết
học Mác - Lênin gồm: Chủ nghĩa duy vật;
Phép biện chứng duy vật về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển; Các
cặp phậm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật; Những quy luật của phép duy vật biện chứng;
Lý luận và nhận thức; Xã hội và tự
nhiên; Hình thái kinh tế xã hội; Nhà nước và cách mạng; Ý thức xã hội; Vấn đề
con người...
Sự thống nhất
giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong triết học Mác làm cho chủ nghĩa
duy vật trở nên triệt để, phép biện chứng trở thành lý luận khoa học. Nhờ đó mà
triết học mácxít có khả năng nhận thức đúng đắn được cả thế giới tự nhiên, cũng
như đời sống xã hội và tư duy con người. Chính sự thống nhất giữa thế giới quan
và phương pháp luận khoa học đã làm cho triết học Mác trở thành "chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị", đồng thời là "công cụ nhận thức vĩ đại". Đánh giá tầm vóc của sự cống hiến mà C.Mác đã
đóng góp cho sự phát triển của triết học, Lênin viết "Mác đã làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức thế giới tự nhiên đến
chỗ nhận thức xã hội loài người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu
vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học " (2).
Từ khi ra đời
cho đến nay, hệ thống các quan điểm của triết học Mác đã trở thành nhân tố định
hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của những người cộng sản và giai cấp
công nhân trên toàn thế giới. Tuy vậy triết học Mác- Lênin không phải là đơn
thuốc vạn năng để giải quyết mọi vấn đề. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn cần tránh cả hai thái cực sai lầm, hoặc là xem thường triết học dẫn
đến bằng lòng với những biện pháp nhất thời, thiếu chủ động sáng tạo, thiếu
nhìn xa trông rộng dẫn đến mất phương hướng... Hoặc là tuyệt đối hóa vai trò
của triết học dẫn đến sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng máy móc những nguyên
lý, những quy luật chung mà không tính tới thực tế khách quan, dẫn đến vấp ngã,
thất bại.
Trong thế kỷ XX,
đã ra đời nhiều trào lưu triết học phương tây hiện đại như: Chủ nghĩa thực
chứng, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa Phơ rớt, chủ nghĩa Tômat mới, chủ nghĩa
thực dụng... tiêu biểu cho các trào lưu triết học phương tây hiện đại là 2 trào
lưu sau:
Trào lưu chủ nghĩa duy khoa học. Trào
lưu này nhấn mạnh việc chống "nhất nguyên luận", nhằm phủ nhận mối
quan hệ giữa tư duy với tồn tại. Họ coi những vấn đề như logic khoa học, phương
pháp luận khoa học, ý nghĩa của kết cấu ngôn ngữ, vấn đề quan hệ giữa ngôn ngữ
với tư duy...tình cảm và ý chí của con người là những vấn đề trung tâm của
triết học. Họ chống cả chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, họ cho triết học duy khoa học là "toàn diện
nhất", "công bằng nhất" " mới nhất". Họ đưa ra luận
điểm "tri thức chỉ bắt nguồn từ kinh nghiệm", họ không thừa nhận nội
dung khách quan của kinh nghiệm. Họ tách kinh nghiệm với thực tại khách quan,
đồng thời họ tách hiện tượng với bản chất. Họ phủ nhận quan điểm cho rằng con
người nhận thức được thực tại khách
quan...
Trào lưu nhân bản chủ nghĩa. Mặc dù lấy
con người làm trung tâm của sự phân tích triết học. Họ coi những thuộc tính
tinh thần của cá nhân như ý chí, tình cảm, nhận thức, bản năng... là bản chất
của con người và là nguồn gốc của thế giới. Họ
phủ nhận việc con người có thể nhận thức được quy luật khách quan bằng
lý tính, họ cho rằng "lý trí chỉ đạt đến hiện tượng, còn trực giác thần bí
mới đạt đến bản chất", họ chỉ thừa nhận sự biến đổi về lượng, không thừa
nhận biến đổi về chất... Họ không chỉ dùng quan điểm siêu hình để bác bỏ phép
biện chứng, mà còn tuyên truyền về tiến hóa luận tầm thường...
Tuy cả 2 trào
lưu triết học phương tây kể trên đã nghiên cứu nhiều vấn đề về con người, đã khái
quát về mặt triết học, đã tăng cường nghiên cứu phương pháp luận khoa học....
Nhưng với tư cách là hình thái ý thức tư sản, triết học phương tây hiện đại ở
thế kỷ XX đã không còn là hình thức lý luận thống nhất hoàn chỉnh, nó đã phá vỡ
sự thống nhất của bản thể luận, nhận thức luận và logic học. Mục đích chính của
họ là đề cao khoa học để hạ thấp triết học, quy triết học thành sự tổng hợp của
các lĩnh vực khoa học, mà thực chất là thủ tiêu triết học.
Mặt khác, do hạn
chế về lập trường chính trị giai cấp, do thế giới quan duy tâm và phương pháp
siêu hình nên họ thiếu sự tự giác trong vận dụng phép biện chứng duy vật. Vì
vậy, cho nên họ đã không thành công trong việc tổng kết và khái quát một cách
đúng đắn những quy luật phát triển của khoa học hiện đại và càng không thể chỉ
ra phương pháp tiến lên của nhân loại. Sự thực khách quan đó, lại một lần nữa
chứng minh tính cách mạng và khoa học của triết học Mác nói riêng, chủ nghĩa
Mác - Lênin nói chung.
Chiến sĩ mới Trung đoàn Đồng Nai tuyên thệ trước quân kỳ (ảnh: Cù Thuận)
Kinh
tế học chính trị Mác - Lênin do C. Mác và Ph. Ăng ghen sáng lập, là sự kế
thừa phát triển quan điểm về kinh tế học chính trị của các nhà nghiên cứu tư
sản trước đó. Mác đã vận dụng phép duy vật biện chứng trong việc nghiên cứu
lịch sử xã hội, bắt đầu từ các phạm trù kinh tế, tiếp đến là việc nghiên cứu sự
tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất... Kinh tế học
chính trị Mác - Lênin đi sâu nghiên cứu phân
tích các vấn đề sau đây: Sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa;
Hàng hóa và tiền tệ; Sản xuất giá trị thặng dư - quy luật kinh tế tuyệt đối của
tư bản chủ nghĩa; Vận động của tư bản và tái sản xuất tư bản xã hội; Lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất; Tư bản kinh doanh hàng hóa và lợi nhuận
doanh nghiệp; Tư bản cho vay và lợi tức cho vay trong chủ nghĩa tư bản; Tư bản
nông nghiệp và địa tô; Chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước; Những vấn đề lý luận và chính sách kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội...
Mặc dù khẳng định quá trình lịch sử tự nhiên
của các hình thái kinh tế - xã hội là tiến trình bị quy định bởi các quy luật
khách quan, nhưng C.Mác cũng luôn cho rằng con người có thể rút ngắn qúa trình
phát triển của nó. Điều đó có nghĩa là, sự phát triển xã hội chẳng những có thể
diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự từ hình thái kinh tế - xã hội này lên
hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn có thể diễn ra bằng con đường bỏ qua
một giai đoạn phát triển hoặc một hình thái kinh tế - xã hội nào đó trong những
điều kiện và hoàn cảnh cụ thể nhất định.
Lênin đã tổng kết những đặc trưng cơ bản
của chủ nghĩa tư bản độc quyền, hình thành lý luận về chủ nghĩa đế quốc, chỉ ra
sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản, dẫn để khả năng thắng lợi của
cách mạng vô sản trước hết ở một vài nước, thậm chí ở một nước tư bản. Lênin đã
đề ra chính sách kinh tế mới (NEP) đối với nước Nga trong thời gian đầu xây chủ
nghĩa xã hội.
Trong thế kỷ XX, chủ nghĩa xã hội có những
thăng trầm trong tiến trình phát triển, nhưng đến nay những nguyên lý, lý luận
được C. Mác chỉ ra trong học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội và sau đó được Lênin vận dụng phát triển trong hoàn cảnh cụ
thể của nước Nga vẫn mang tính cách mạng – khoa học. Tuy những nguyên lý, lý
luận ấy chưa được chứng minh đầy đủ trong thực tiễn, song cũng chưa ai có thể phủ
nhận được và chưa học thuyết nào có thể vượt qua.
Chủ
nghĩa xã hội khoa học, là 1 trong 3 bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chủ nghĩa xã hội khoa học đề cập đến các vấn đề về chính trị học, bao gồm: Sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân; Xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội; Dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa; Liên minh
giữa công nhân với nông dân và trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội; Vấn đề dân tộc, tôn giáo, vấn đề gia đình trong cách mạng xã hội chủ nghĩa;
Quyền lực chính trị và hệ thống chính trị; quan hệ chính trị và kinh tế....
C. Mác nêu rõ,
Chủ nghĩa tư bản càng phát triển, thì càng tạo ra những tiền đề vật chất cho sự
ra đời xã hội mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa... Lực lượng xã hội thực hiện sự
chuyển biến đó chính là giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Qúa trình phát
triển từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội cộng sản chủ nghĩa là cả một thời
kỳ lịch sử lâu dài. Đây là thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội
kia, thích ứng với thời kỳ ấy là thời kỳ quá độ chính trị.... Thời kỳ này được
tính từ khi giai cấp công nhân giành được chính quyền đến khi giai cấp công
nhân xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản. Nhà nước trong thời kỳ này chính
là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản.
Bằng thực tiễn cách mạng Tháng Mười Nga, V.I.Lênin
tiếp tục khẳng định quan điểm của C.Mác về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa cộng sản. Đồng thời chỉ ra
loại hình quá độ mới đó là: Các nước tư bản phát triển trung bình vẫn có thể thực hiện cuộc cách mạng xã hội để xây dựng
một xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Các hình thức quá độ về kinh tế trong giai
đoạn này là: Tư bản nhà nước trong công nghiệp và hình thức hợp tác trong quá
trình sản xuất hàng hóa, đặc biệt là sản xuất hàng hóa trong lĩnh vực nông
nghiệp....
V.I. Lênin đã
phân tích khả năng khách quan của các nước mà nền kinh tế còn lạc hậu vẫn có
thể tiến lên chủ nghĩa xã hội không trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Lênin
viết "tính quy luật chung của sự
phát triển trong lịch sử toàn thế giới đã không loại trừ mà trái lại, còn bao
hàm một số giai đoạn phát triển mang những đặc điểm hoặc về hình thức, hoặc về
trình tự của sự phát triển đó" (3). Đồng thời Lênin cũng chỉ rõ, những
người cộng sản ở các nước có nền kinh tế lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội cần
"bắc những nhịp cầu" để
từng bước dẫn dắt nông dân sao cho phù
hợp với trình độ nhận thức, trình độ văn hóa của nông dân. Nếu càng nôn nóng rút ngắn thời kỳ quá độ theo
ý muốn chủ quan bao nhiêu, thì chỉ càng
kéo dài thời kỳ quá độ ấy với những khó khăn càng tăng lên bấy nhiêu mà thôi.
Học thuyết về
chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ và về khả năng xây dựng chủ nghĩa xã hội
không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là bộ phận quan trọng của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Học thuyết đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng của thời đại, phản ánh những nhu cầu cơ bản của
cuộc đấu tranh cách mạng mà giai cấp vô
sản đang thực hiện để làm thay đổi thế giới và giải phóng con người.
2/ Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam.
Ngay từ giai
đoạn đầu tiếp cận với bản thảo lần thứ nhất của luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định “ chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa
Lênin ”. Trong tác phẩm "Đường
kách mệnh", Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã viết "Đảng muốn vững thì phải có
chủ nghĩa làm nòng cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ
nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu
không có bàn chỉ nam”. Hồ Chí Minh
chỉ rõ “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là
chủ nghĩa Lênin "
Hệ thống các
quan điểm tư tưởng cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, bao gồm: Giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội và con người; Độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội; Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; Sức mạnh của nhân dân, về khối đại đoàn kết
toàn dân tộc; Quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì
dân; Quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân; Xây dựng, phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân; Đạo đức cách mạng; Chăm lo, bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau; Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh...
Hồ Chí Minh nêu
rõ: "Con
đường của cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản, chỉ có con đường
cách mạng vô sản mới giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội
và giải phóng con người". Trong các cuộc cách mạng giải phóng ấy, thì
giải phóng con người là mục tiêu cao nhất của cách mạng, là động lực thúc đẩy
cách mạng. Bác nhấn mạnh "để thực
hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc phải
gắn liền với chủ nghĩa xã hội thì độc lập dân tộc mới vững bền". Quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chính
là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt
Nam và phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.
Bác khẳng định, trong một quốc gia quần chúng
nhân dân là gốc của nước “nước lấy dân
làm gốc”, cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân. Người khẳng định
“Gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng
lợi trên nền nhân dân”. Người nói “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm
lần dân liệu cũng xong”, “Ở đâu có
dân là có núi có sông có biển, dân có sức mạnh hơn cả sông núi. Nếu ta biết dựa
vào dân thì sẽ thành công”. Đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược cơ bản,
nhất quán, lâu dài, là vấn đề sống còn, quyết định thành công của cách mạng. Đó
là chiến lược tập hợp mọi lực lượng nhằm hình thành và phát triển sức mạnh to
lớn của toàn dân trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù của dân tộc, của nhân
dân. Nguyên tắc cơ bản để xây dựng khối
đại đoàn kết là bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc và quyền lợi cơ bản của các
tầng lớp nhân dân.
Quan điểm về quyền
làm chủ của nhân dân, về xây dựng Nhà nước của dân, do dân vì dân của Hồ Chí
Minh là “dân là chủ”. Bác nói “Nước ta
là nước dân chủ, nghĩa là nhà nước do nhân
dân làm chủ”, “Chế độ ta là chế độ
dân chủ, tức là nhân dân là người chủ”, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao
nhất là dân, vì dân là chủ”.
Hồ Chí Minh viết:
“Nước ta là nước dân chủ.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”
Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhấn mạnh: "dân chủ là việc bảo
đảm quyền con người, quyền công dân". Dân chủ không dừng lại với tư
cách như là một thiết chế xã hội của một quốc gia, mà còn có ý nghĩa biểu thị
mối quan hệ quốc tế. Vì vậy, Hồ Chí Minh
yêu cầu phải thực hiện được một nền dân chủ chân chính, không cho phép
ai lợi dụng và lạm quyền “dân chủ” để xâm phạm lợi ích của nhà nước và lợi ích
của người dân.
Người khẳng định:
“Nhà nước của ta là nhà nước dân chủ của
nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”.
Do vậy, nhà nước phải bảo vệ, chăm lo lợi ích cho nhân dân lao động, nhà nước
phải điều hành phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã
hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công
nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến.
Bác Hồ đã sớm
nhận ra rằng, muốn giải phóng dân tộc thì phải có lực lượng quân sự và lực
lượng này phải có tổ chức, phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Xây dựng lực
lượng vũ trang phải nắm vững quan điểm: Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng, bạo lực vũ trang khởi nghĩa chủ yếu cũng là bạo lực của quần chúng.
Thực hiện chiến tranh nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh
nhân dân. Bác chỉ rõ "lực lượng vũ
trang cách mạng từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu và phục vụ, được nhân
dân nuôi dưỡng, đùm bọc, che chở". Người luôn căn dặn các cán bộ,
chiến sỹ quân đội là, "mình đánh
giặc là vì dân, chứ không phải mình là “cứu tinh” của nhân dân". Do
vậy tất cả quân nhân phải làm "cho
dân tin, dân phục, dân yêu". Phải làm thế nào để khi mình chưa đến thì
dân trông mong, khi mình đến thì dân giúp đỡ, khi mình đi nơi khác thì dân
luyến tiếc. Muốn vậy, bộ đội phải giúp đỡ dân, thương yêu dân. Bác nói " Dân như nước, quân như cá", phải
làm cho dân hết sức giúp đỡ mình thì mình mới đánh thắng giặc. Việc xây dựng
lực lượng vũ trang cách mạng cần kết hợp giáo dục quân sự với chính trị, bởi lẽ
quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại. Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng
phải toàn diện về các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và quân sự. Khi đề cập
đến mối quan hệ giữa con người và vũ khí Bác nói “con
người là quyết định, vũ khí là quan trọng”, “người trước, súng sau”. Phương châm xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân của Hồ Chí Minh là tự lực cánh sinh, tổ chức lực lượng vũ trang thành 3 thứ
quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương
và dân quân, du kích.
Hồ Chí Minh luôn
luôn đề cao việc không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Người chỉ rõ: "Chúng ta giành được
tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói chết rét, thì tự do - độc lập cũng không
là gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự
do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Nếu để dân đói, đảng và chính phủ có lỗi". Người yêu cầu, phải nâng cao ý thức giác ngộ cách mạng, độc
lập dân tộc, kiên trì phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa, phát huy
tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết dân tộc, ý thức tự lực tự cường của
nhân dân. Để đạt được yêu cầu nêu trên, thì cần phải thực hiện công bằng xã
hội, phải phát triển dân trí, coi giáo dục là quốc sách.
Xác định tầm
quan trọng đặc biệt của đạo đức cách mạng, Bác nói: Đạo đức cách mạng là gốc, là nền tảng cách mạng, Cũng như sông thì có
nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc
thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi
đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân.. Đạo đức cách mạng là đạo đức
mới, là sự thống nhất lợi ích của Đảng với lợi ích của dân tộc và lợi ích của
nhân dân.
Đánh giá cao vai
trò của thế hệ trẻ, Người nói: “Một năm
khởi đầu từ mùa xuân, một đời khởi đầu từ tuổi trẻ, tuổi trẻ là mùa xuân của xã
hội”, “Thanh niên là người chủ tương lai
của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là
do thanh niên”. Người chỉ rõ, cần
phải tin tưởng ở thế hệ trẻ, phát huy vai trò của thế hệ trẻ trong xây dựng và
kiến thiết đất nước. Muốn phát huy được thế hệ trẻ phải thực sự hiểu thế hệ
trẻ, phải quan tâm tới những nguyện vọng, những lợi ích chính đáng của thế hệ
trẻ, xây dựng tổ chức Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh vững mạnh, nâng cao
trách nhiệm của các tổ chức đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội
đối với việc bồi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ.
Hồ Chí Minh
khẳng định: Đảng là lực lượng lãnh đạo nhà nước và toàn xã hội, đảng không phải
là “quan nhân dân”, mà là “công bộc”, “đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch. Phải xứng đáng là người lãnh đạo, là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Bác đề cập đến nội dung công tác
xây dựng đảng, là xây dựng về chính trị, tư tưởng, tổ chức nhằm xây dựng đường
lối chính trị, xây dựng và phát triển hệ tư tưởng chính trị, củng cố lập trường
chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị, xây dựng tổ chức đoàn kết, thống nhất
chặt chẽ....
Từ sự phân tích
điều kiện cụ thể của nước ta là một nước nghèo với nền sản xuất nông nghiệp lạc
hậu, muốn bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa để đi lên chủ nghĩa xã
hội, Hồ Chí Minh khẳng định “Nhiệm vụ
quan trọng bậc nhất của chúng ta hiện nay là phát triển sản xuất, để nâng cao
đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân. Muốn có chủ nghĩa xã hội thì không
có cách nào khác là phải dốc lực lượng của mọi người ra để sản xuất”. Người
chỉ ra yêu cầu cấp bách phải xây dựng nền tảng vật chất - kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội với những con người mới xã hội chủ nghĩa. Từ đó, từng bước thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc...
Không chỉ dừng
lại việc đề ra hệ thống lý luận đúng đắn, khoa học và cách mạng. Hồ Chí Minh còn sáng tạo phương pháp cách
mạng hết sức triệt để và khoa học, đó là phát huy sức mạnh tổng hợp, kết hợp
bạo lực chính trị với bạo lực vũ trang, giữa sức mạnh truyền thống và hiện đại,
dân tộc và quốc tế... Hệ thống quan điểm về lực lượng cách mạng và xây dựng các
tổ chức cách mạng được hình thành trong tư tưởng Hồ Chí Minh trên tinh thần bao
trùm là “nước lấy dân làm gốc”, lịch
sử do quần chúng nhân dân sáng tạo ra và nhân dân là lực lượng quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng.
Tư tưởng Hồ Chí
Minh là sự kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và
tinh hoa văn hóa nhân loạị, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm
toàn diện, sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Là nền
tảng tư tưởng của đảng, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn, quý giá của Đảng
và của dân tộc ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn đuốc soi đường cho sự nghiệp cách mạng
của Đảng ta, dân tộc ta và nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo về tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thắng lợi của
cách mạng Việt Nam
trong hơn 70 năm qua, là thực tế sinh động chứng minh con đường phát triển tất
yếu của nước ta là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Mỗi thắng lợi
giành được trong sự nghiệp cách mạng của đất nước do Đảng ta lãnh đạo đã và sẽ
góp phần củng cố niềm tin ngày càng vững chắc vào con đường đi lên Chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, mà Bác Hồ, đảng ta và nhân dân ta đã chọn.
3/ Nhận
diện một số quan điểm sai trái mà các thế lực thù địch, phản động đang tiến hành, nhằm phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng ta.
Hiện nay các thế
lực thù địch, phản động đã và đang tìm mọi cách, sử dụng nhiều thủ đoạn tinh
vi, thâm độc nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp phủ định các nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác- Lênin. Chúng phê phán triệt để, bôi đen hiện thực, để đi đến bác
bỏ hoàn toàn chủ nghĩa xã hội . Chúng
nêu lên thuyết “quái thai”, “đẻ non của lịch sử”, “chủ nghĩa xã hội cáo chung”...
chúng cho rằng: "CNXH ra đời ở các nước lạc hậu không đúng theo kịch bản
của Mác, sự thất bại và sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu đã chứng tỏ rằng CNXH không
có sức sống", "CNXH ra đời chỉ là sự nhào nặn từ đầu óc ngông cuồng của những
người cộng sản"...
Chúng tập trung bài xích, công kích vào những luận
điểm riêng lẻ của học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội, cho đây là một
học thuyết “duy kinh tế”. Chúng cho rằng, cách tiếp cận theo hình thái kinh tế
- xã hội của C. Mác là cách tiếp cận chỉ dựa trên nền văn minh công nghiệp,
nên chỉ xem xét thế giới một cách phiến diện, chỗ nào cũng thấy mâu thuẫn, xung
đột, đối kháng... Suy ra, không phù hợp nữa. Từ đó chúng đi đến kết luận “xã
hội loài người chỉ ngừng lại ở CNTB”, “CNTB
sẽ tồn tại vĩnh viễn như một điểm dừng của lịch sử ”...
Một số thế lực
phản động khác thì tuyên truyền rằng: Chủ nghĩa Mác chỉ phù hợp với thế kỷ XIX,
nay đã lỗi thời và lạc hậu. Chủ nghĩa Mác- Lênin phù hợp một chừng mực nào đó
với trình độ lực lượng sản xuất và văn hoá Nga, không phù hợp với thế kỷ này,
không phù hợp với nước ta...
Chúng cho rằng "không
có con đường đổi mới để có CNXH", hãy "bỏ
CNXH để quay về với dòng chính tự nhiên
của lịch sử là CNTB" hoặc là "nên biết tự giác theo con đường CNTB
thì đến đích nhanh hơn, nếu không thì tất yếu sẽ phải đi theo con đường đó
nhưng đến đích đau đớn hơn"...
Một số học giả
phương tây lại cho rằng, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang diễn
ra mạnh mẽ, một số lĩnh vực đã có sự bứt phá và có phát triển vượt bậc, đặc biệt là lĩnh vực tin học, sinh học, vật
liệu mới, năng lượng mới.... Thành tựu của cuộc cách mạnh công nghiệp lần thứ 4
tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến quá trình lao động, sản xuất của nhiều quốc gia,
dân tộc. Nó tác động đến tâm lý, lối sống của con người và đến cả quá trình đấu
tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc... Từ
những lập luận nêu trên, chúng đi đến những kết luận mang tính xuyên tạc, như:
Hồ Chí Minh chỉ là người dân tộc chủ nghĩa; lấy chủ nghĩa Mác- Lênin làm phương
tiện, du nhập chủ nghĩa Mác- Lênin với thuyết đấu tranh giai cấp gây ra cảnh
“nồi da nấu thịt” và chúng cho rằng "việc đưa chủ nghĩa Mác- Lênin vào
Việt Nam là một sai lầm"...
Chúng cho rằng, Việt
Nam trước đây có sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, thì có thể bỏ qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, nay không còn sự giúp đỡ đó thì không
thể đi lên CNXH được, hãy trở lại chế độ dân chủ nhân dân. Chúng xuyên tạc
đường lối phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN của ta là "chắp vá", "không tưởng"...
Chúng kêu gọi, không nên tôn thờ CNXH một cách lý thuyết suông, hãy
hoà nhập vào thời đại và đi theo con đường TBCN... Những thắng lợi trong công
cuộc đổi mới của nước ta chẳng qua vì những người cách mạng Việt Nam đã quá độ
sang CNTB, đi theo CNTB... Chúng phê phán, việc lấy kinh tế nhà nước là chủ đạo
tức là tập trung vào khu vực kinh tế kém hiệu quả, khó tránh khỏi tụt hậu, yêu
cầu ta phát triển thị trường tự do tư bản, khuyến khích tư nhân phát triển…
Tóm lại, những
luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ, nói xấu... của các thế lực thù địch, phản động
nhằm phủ định tính cách mạng, khoa học của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Qua đó để phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, tiến
tới xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Do vậy, cần nhận diện và đấu
tranh có hiệu quả làm thất bại âm mưu thủ đoạn của chúng.
4/ Đấu
tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch phải khách quan, toàn diện,
kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn.
Cần thay đổi
cách tiếp cận trong công tác chính trị tư tưởng, không nên cho rằng cái gì của
chủ nghĩa tư bản cũng xấu xa và đối lập hoàn toàn với CNXH, còn cái gì của CNXH
cũng lý tưởng, tốt đẹp. Giờ đây, chúng
ta cần phân tích, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về vai trò, vị trí,
về những giá trị mà CNTB đã đóng góp cho nhân loại mà chúng ta có thể kế thừa,
tiếp thu một cách có chọn lọc. Đồng
thời, chỉ ra những hạn chế, nhược điểm, những thuộc tính tiêu cực, cố hữu của
CNTB mà chúng ta phải “bỏ qua”.
Cần khẳng định,
CNTB đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và
phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học, công nghệ. Dù rằng, CNTB đã cố
gắng thích nghi với tình hình, bối cảnh xã hội song vẫn không thể khắc phục
được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó. Cần tránh khuynh hướng phủ nhận sạch
trơn CNTB cũng như khai thác mặt trái của CNTB mà thiếu lý lẽ sắc bén, thiếu
tính thuyết phục để cắt nghĩa có cơ sở lý luận, thực tiễn, bóc trần tính chất
phản động từ bản chất của nó. Cùng với đó, cũng cần tránh khuynh hướng tô hồng,
ca ngợi CNXH một chiều.
Cần làm rõ thực
tế là, ở các nước tư bản phát triển như Mỹ, các nước Tây Âu, Nhật Bản, giai cấp
tư sản đang cố gắng sử dụng những thành quả của cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ, để nâng cao năng xuất lao động xã hội, điều chỉnh quan hệ sản xuất và đưa
lại những cải thiện nhất định về đời sống cho người lao động... Nhưng dù có sự
điều chỉnh ấy thì bản chất của chủ nghĩa tư bản vẫn không hề thay đổi. Quyền
lực chính trị, lợi ích kinh tế và đại bộ phận tư liệu sản xuất vẫn thuộc về
giai cấp tư sản, đặc biết là sự thống trị, lũng loạn của các nhà tài phiệt
trong các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia. Giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, kể cả một bộ phận trí thức vẫn là những người lao động làm thuê, kiếm
sống.
Trong công tác
tuyên truyền cần chỉ ra những kết quả, thành tựu to lớn mà Việt Nam đã đạt được
trong quá trình đổi mới. Đồng thời chỉ rõ những khuyết điểm, hạn chế, khó khăn,
thách thức mà chúng ta phải đối mặt trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Cần làm rõ, việc Việt Nam bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa để đi lên CNXH là bỏ qua những
thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ XHCN, chứ không phải bỏ
qua những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đạt được trong các thời kỳ
phát triển trước đó.
Công tác tư
tưởng hiện nay cần khẳng định, phân
tích, minh chứng cụ thể, sinh động, khoa học, biện chứng, kết hợp nhuần nhuyễn
giữa lý luận và thực tiễn để luận giải những vấn đề quan trọng đang bị các thế
lực thù địch, phản động lợi dụng xuyên tạc và có nhiều ý kiến trái chiều.
Hình thức phản
bác chính là một dạng tranh luận chính trị tư tưởng có tính đối kháng cao, cần
được duy trì và phát huy tác dụng. Trong tranh luận phải dựa trên cơ sở luận cứ
khoa học, phải lấy chính nghĩa, giá trị văn hóa, đạo đức, những tiến bộ xã hội
mà nhân loại đã thừa nhận làm thước đo để khẳng định phải - trái, đúng - sai,
tiến bộ - thoái bộ. Có như vậy, đối tượng bị đấu tranh mới tâm phục, khẩu phục,
người đọc, người nghe mới tin tưởng,
nghe theo, hiệu quả đấu tranh mới bền vững, có tác động tích cực, sâu sắc.
5- Tiếp
tục nghiên cứu, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh trở thành vũ khí lý luận sắc bén, luôn là nền tảng tư tưởng vững chắc của
Đảng ta.
Bên cạnh những
thành tựu to lớn mà công cuộc xây dựng XHCN ở nước ta đạt được, thì cũng nảy sinh nhiều
vấn đề kinh tế, xã hội... cần được làm rõ như: Xây dựng chế độ công hữu như thế
nào, với những hình thức và bước đi ra sao để tạo ra sự thống nhất hữu cơ giữa
sở hữu xã hội với sở hữu cá nhân của người lao động? Vấn đề kế hoạch hóa trong
quản lý nền sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường? Vấn đề đổi mới hệ thống chính trị hiện nay ra sao?
Vấn đề nguy cơ trong bộ máy nhà nước như quan
liêu, tham nhũng, lãng phí, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" giải quyết thế nào?...
Để giải quyết
những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội nảy sinh trong sự nghiệp đổi
mới đất nước, chúng ta không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu, vận dụng sáng tạo
học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể
của nước ta. Mà cần phải tiếp tục nghiên cứu bổ sung, phát triển những vấn đề mang tính lý luận và tính khoa học. Phải coi trọng đổi mới tư duy lý luận, đặt nó trong
sự vận động và phát triển không ngừng. Từ đó, làm cho học thuyết Mác- Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh luôn được tươi mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi
vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với nhịp sống của đất nước.
Đổi mới tư duy
lý luận, tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội là khâu đột phá, coi đổi mới kinh
tế là trọng tâm và phải đi trước một bước. Đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải gắn
kết với nhau, nhưng đổi mới chính trị phải trên cơ sở thành tựu của đổi mới
kinh tế và phục vụ cho sự nghiệp đổi mới về kinh tế. Ngược lại, đổi mới kinh tế
phải đúng định hướng chính trị, phải góp phần tăng cường ổn định chính trị.
Công cuộc đổi
mới đất nước theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa không thể đi đến thành công nếu như xa rời lập
trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Mặt khác, chỉ có thông qua tổng
kết thực tiễn quá trình xây dựng đất nước mới hiểu được quy luật, định ra được đường
lối, phương châm, bước đi cụ thể thích hợp cho công cuộc đổi mới đất nước. Thực
tiễn phong phú và những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới hơn ba mươi năm
qua đã chứng minh giá trị to lớn của bài học đó. Qua đó khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động
của Đảng là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận
của Đảng ta.
Bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ “xây”, nghĩa là nghiên cứu, vận dụng sáng tạo, bổ
sung phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đó chính là tạo
lập nền tảng tư tưởng, tinh thần cách mạng, tiến bộ và lành mạnh trong Đảng và trong
xã hội. Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ
“chống”. Trong đó nhiệm vụ “xây” là chính, “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp
bách, thường xuyên.
CHÚ THÍCH :
(1) C.
Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, Nxb chính trị quốc gia HCM năm 1993, trg 23 và trg
35.
(2)
V.I Lênin:
Toàn tập-Tiến bộ Mátxcova. Năm 1980 trg 23 và trg 53
(3)
V.I Lênin:
Toàn tập-Tiến bộ, năm 1978, trg 45 và
trg 431.
(4)
V.I Lênin: Toàn tập-Tiến bộ Mátxcova, năm 1980
trg 33 và trg 95
(5)
V.I Lênin: Toàn tập-Tiến bộ Mátxcova, năm 1980
trg 33 và trg 97.
(*) Tham khảo 1 số tư liệu trên các phương tiện thông tin đại chúng.