Th.S
Nguyễn Văn Nhật Thành
Đồng hành cùng cuộc chuyển mình lớn
lao của đất nước, văn học Việt Nam sau 1975 chứng kiến cuộc vật lộn âm thầm
nhưng quyết liệt của bao văn nghệ sĩ trên hành trình tìm kiếm “sinh lộ” mới cho văn chương Việt. Có
người cho đây là cuộc nhận đường – “một
cuộc nhận đường có lẽ còn phức tạp hơn cuộc nhận đường lần thứ nhất và lần thứ
hai đã diễn ra trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và những năm sau hòa bình ở
Miền Bắc” bởi ở đó, người cầm bút không chỉ đối mặt với “ngồn ngộn” những chất liệu nghệ thuật
mới đang ùa vào trang văn, phá vỡ hệ hình thi pháp cũ mà còn vượt thoát khỏi
chính mình để tìm kiếm những nẻo đường mới cho văn chương. Vì vậy, mỗi nhà văn
không ngừng tìm kiếm, khai phá và sáng tạo. Họ không chỉ nhạy cảm với cái mới
mà đôi khi phải chấp nhận cả sự cô đơn trên hành trình nghệ thuật của chính
mình mà Nguyễn Khắc Phê có thể xem là một trong những trường hợp tiêu biểu. Tuy
không phải là người “mở đường tinh anh”
như Nguyễn Minh Châu cũng không phải là tài năng được nhìn nhận một cách đồng
thuận trong các đánh giá phê bình, nhưng “luồng
gió mới” mà Nguyễn Khắc Phê mang đến cho dòng chảy văn học là đáng trân trọng,
làm nên một “thương hiệu” cho Huế nói
riêng và văn học cả nước nói chung.
Người viết tiểu thuyết là người luôn hình dung trong tâm tưởng,
những chi tiết sống động, rồi sau đó là tìm ngôn từ để diễn đạt. Nhà văn là nhà
nghệ thuật ngôn từ. Nhưng nghệ thuật ngôn từ của nhà tiểu thuyết không phải là
sự trau chuốt vần điệu, mà làm sao cho ngôn ngữ nghệ thuật gần với ngôn ngữ
thật của đời sống, nhưng lại chính là ngôn ngữ nghệ thuật chứ không phải ngôn
ngữ đời sống. Xem ngôn ngữ như là một trong những yếu tố đầu tiên quy định cung
cách ứng xử của người cầm bút, mặc dù Nguyễn Khắc Phê chưa được xem là một
trong những nhà cách tân về ngôn ngữ của văn học Việt Nam sau 1975 tuy nhiên
con đường mà ông đã đi qua chỉ mới là những thử nghiệm nhưng nó đã xác lập được
một dấu ấn cá nhân, một cái tôi bản thể đầy độc đáo. Với Nguyễn Khắc Phê viết
văn không đơn thuần là trò làm xiếc bằng ngôn từ mà là cách ứng xử khoa học và
đầy tâm huyết của một nhà văn. Nên trong vấn đề này không phải không có những ý
kiến trái chiều cho những đổi mới của Nguyễn Khắc Phê. Song bất chấp sự hiểu
nhầm - bi kịch của những nhà đổi mới, cách tân - những trang văn của Nguyễn Khắc
Phê vẫn là những văn bản đa thanh kì diệu, mở ra bát ngát những liên tưởng từ
những ngôn ngữ lạ lẫm, đầy cá tính sáng tạo.
Chân dung nhà văn Nguyễn Khắc Phê
Thu hẹp khoảng cách giữa truyện kể và những “chuyện” của hiện thực, ngôn ngữ văn chương sau 1975 trở nên gần
gũi với ngôn ngữ đời sống hơn bao giờ hết. Có sự xuất hiện của những khẩu
ngữ,ngôn ngữ vỉa hè. Có kiểu phát ngôn trần trụi, không gọt giũa của thứ ngôn
ngữ “chợ búa”. Những tiếng lóng,
những câu chửi thề được sử dụng khá thường xuyên….để phê phán một mảng xã hội
bề bộn mọi chuẩn mực đạo đức bị đảo lộn, nhiều cây bút đã không ngại sử dụng
thứ ngôn ngữ trần thuật “thiếu văn hóa”,
ngôn ngữ “phố phường” thời hiện đại.
Nguyễn Khắc Phê cũng không ngoại lệ, thậm chí nhà văn còn mạnh tay hơn so với
nhiều cây bút khác trong việc sử dụng ngôn ngữ đời thường “trần trụi” trong lời kể. Điều ấy lặp đi lặp lại tạo thành một thứ
ngôn ngữ nhất quán trong sáng tác của Nguyễn Khắc Phê.
Điều đầu tiên dễ nhận thấy trong văn Nguyễn Khắc Phê là sự dung
nạp những khẩu ngữ có thể gặp ở bất kỳ đâu trong cuộc sống thường nhật như cái
kiểu chửi thề thô tục: “Tàu với bè như
con c…!”[9, tr. 7], “Đ.mẹ! Biết tàu
bè như cái đếch thế này thì bố nhảy xe cho rồi”[9, tr. 11], “Tôi muốn lên, muốn xuống mặc tôi, việc đếch
gì đến ông!” [9, tr. 12], “Ông đếch
có quyền gì ở đây”[9, tr. 12], “Đ.mẹ!
Chúng nó nẻ tính tiền từng bao một chứ đâu…”[9, tr. 12], “Bỏ mẹ! Động rồi ! [8, tr. 93], “Cây gỗ đâu? Dây đâu? Mau lên! Tối mẹ nó rồi
!” [7, tr. 26], “Đù mẹ! Đừng có tưởng
bở!”[7, tr. 26], “Ông ngu bỏ mẹ” [7,
tr. 65], “Đ…mẹ! Không có bằng chứng, đếch
sợ” [7, tr. 205], “Không khéo chạy mẹ
nó mất rồi” [7, tr. 223], “Ông ngu bỏ
mẹ!” [7, tr. 65], “Lơ mơ chúng nó
khai ra lung tung thì bỏ mẹ!” [7, tr. 177],…
Ngôn ngữ như vậy tạo cảm giác nhà văn có thể tóm ngay những chi
tiết bất kỳ đâu, ngoài đường phố, vỉa hè, không qua gọt giũa đưa thẳng vào văn
chương. Ngôn ngữ như một dong chảy tự nhiên không qua chưa được sắp xếp. Đọc
văn của Nguyễn Khắc Phê, người ta có cảm giác ngôn ngữ đang ở trong trạng thái
nguyên thủy, không pha trộn màu mè. Có những câu văn cụt ngủn, lửng lơ như lời
nói hằng ngày chưa được dàn xếp theo quy luật của văn chương: “Chị thầm hỏi, nhưng không đưa trí tưởng
tượng đuổi theo họ mà lại cố tìm bắt hình ảnh của chính mình. Bao nhiêu năm đã
qua.” [8, tr. 6], “Đèn đỏ là tín hiệu
“stốp” dừng lại. Điềm gở chăng? [8, tr. 12], “A…!Anh ở đây rồi à? Ai tin mà lẹ thế? Tôi vừa…” [7, tr. 62]. Nhưng
nhiều hơn cả là những câu văn dài, rườm rà nhiều hư từ, giới từ, văn nói và văn
viết không thể tách bạch: “Nhà một tầng
không hết vẫn muốn xây lầu; xa lông gõ vừa mua đã muốn đổi hàng tiện trắc, cẩm
lai; lâu đài giữa thành phố phải thuê người quét bụi các phòng để trống, vẫn
muốn xây thêm biệt thự ngoại ô; đã có vợ, còn muốn bao “bồ nhí”; thậm chí đến
cỗ “hậu sự” đưa con người trở về với cát bụi cũng thi nhau đóng thật dày, gỗ
thật tốt” [7, tr. 24]. Hay: “Người đang
ở nhà tranh thì làm nhà ngói, người đã có nhà ngói thì xây lầu, nhân viên loại
bét như tay thủ kho cũng bỏ xe đạp lên được chiếc cúp” [8, tr. 135].
Trong những trường hợp này, ngôn ngữ của Nguyễn Khắc Phê mang tính
chất nguyên sơ, tự nhiên, một thứ ngôn ngữ nguyên chất, trần trụi với ngôn ngữ
hằng ngày sinh động đầy biến hóa. Ngôn ngữ như vậy không đơn thuần là những kí
hiệu mà là một chất liệu làm hiện hình trực tiếp một trạng thái đời sống. Nó
không phải qua trung gian phiên dịch các kí hiệu của tư duy mà tác động ngay
vào cảm giác của người đọc, cho ta những cảm giác trực tiếp về đời sống. Có thể
là cảm giác pha tạp ngổn ngang, có thể là cảm giác tẻ nhạt, công thức đến vô
nghĩa nhưng quan trọng hơn nó luôn tạo ra một cảm giác chân thực về cuộc đời.
Mặt khác, ngôn ngữ đời thường trần trụi trong văn của Nguyễn Khắc
Phê còn thể hiện đậm nét ở cách ông sử dụng những từ ngữ thông tục. Đọc Nguyễn
Khắc Phê, ta sẽ không bắt gặp một, hai từ chêm xen thông tục trên tổng thể là
lượt, gọt giũa giống ngôn ngữ cổ điển của Tú Xương, Hồ Xuân Hương, Nguyễn
Khuyến mà Nguyễn Khắc Phê có vẻ gần gũi hơn với Vũ Trọng Phụng trong Số đỏ,
song táo bạo hơn bằng cách tung ra một dòng thác những ngôn từ bỗ bã về
bất kỳ đối tượng nào được đề cập tới.
Cũng như những con người bình thường khác, mỗi nhà văn thường neo
đậu hồn mình với một địa danh, một quê hương mình gắn bó. Thể hiện hình bóng
quê hương trên trang viết là một trong những cách đền đáp nghĩa tình đối với
mảnh đất mà họ yêu thương. Và việc lấy phương ngữ nơi mảnh đất mình gắn bó làm
ngôn ngữ biểu đạt trong tác phẩm cũng là một hướng đi nhiều nhà văn lựa chọn.
Đọc văn Hồ Biểu Chánh, ta nhận ra chất Nam bộ trong hệ thống từ địa phương được
sử dụng dày đặc trong tác phẩm. Giọng văn Tô Hoài cho biết ông là nhà văn của
mảnh đất kinh kỳ Tràng An ngàn năm văn vật, gần với ngôn ngữ chuẩn về ngữ âm
nhưng có thể nhận ra cái riêng với vốn từ vựng ngữ nghĩa của một vùng phương
ngữ. Trong thực tế, nhà văn của phương ngữ Bắc chất phương ngữ ít lộ rõ, bởi nó
gần với ngôn ngữ chuẩn. Tác giả Nguyễn Khắc Phê là người con gắn bó với vùng
Trung Trung bộ, lời ăn tiếng nói của con người nơi đây đã đi vào tác phẩm của
ông và thực sự đem lại giá trị thẩm mĩ. Lớp từ địa phương được xem là một đặc
điểm thể hiện phong cách ngôn ngữ của tác giả như: đại từ chỉ định và nghi vấn (ni, ri, chi
răng), đại từ xưng hô (tui, tau, mi), danh từ chỉ người (mạ, mấy
cô, o, mệ (bà), ông mệ), tính từ (dở òm, dị òm, dài dài, thanh
thoả, dữ hí, dữ), quán ngữ (hết chịu nổi, thiệt là bà chằn, mắc mớ chi,
nói bà xàm)...Trong các loại trên thì đại từ chỉ định, nghi vấn, đại từ
xưng hô số lượng từ ít nhưng được sử dụng với tần số cao, còn các từ loại khác
tần số sử dụng không cao nhưng đem đến cho người đọc cảm giác thú vị từ vốn từ
địa phương mới lạ, với những sắc thái nghĩa phong phú. Chính những yếu tố ngôn
ngữ này đã góp phần tạo nên lời văn sinh động, giàu sắc thái biểu cảm, hiện
thực được phản ánh lên trang viết với sự tinh nguyên, tươi rói vốn có của cuộc
sống.
Tác giả dùng từ địa phương với dụng ý nghệ thuật, xây dựng hình tượng
nhân vật gắn với một địa phương, gợi những tình cảm của người đọc về một vùng
đất đậm đà bản sắc văn hoá. Ngoài ra, sự xuất hiện nó còn giúp cho khoảng cách
ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ đời sống dường như được rút ngắn, đường ranh
giới không còn rõ ràng, tính hiện thực của tác phẩm được nâng lên. Nguyễn Khắc
Phê dùng từ ngữ địa phương một cách hợp lí, đi vào lòng người, thuyết phục độc
giả bởi chất liệu cuộc sống chân thực. Màu sắc hiện thực từ địa phương mang lại
không kém phần tươi tắn và gây hiệu quả về cảm xúc nghệ thuật.
Tất cả đều trần trụi, ngồn ngộn đi vào trong tác phẩm của Nguyễn
Khắc Phê một cách tự nhiên, thoải mái như lời ăn tiếng nói của con người trong
cuộc đời thực. Không thể phủ nhận việc sử dụng đến mức lạm phát những ngôn ngữ
bỗ bã cũng hạn chế tính thẩm mỹ của tác phẩm, khiến đôi khi bạn đọc thấy “sốc”, khó chấp nhận nhưng thực ra nó
hàm chứa trong đó cách ứng xử riêng của Nguyễn Khắc Phê với ngôn ngữ truyền
thống và quan trong nó liên quan đến cách tiếp cận đời sống riêng của ông.
2. Ngôn ngữ trào phúng đầy tính giễu nhại
Đây là một đặc điểm quan trọng làm nên chất Nguyễn Khắc Phê - một
chất văn trí tuệ sắc sảo luôn phát hiện ra tính vấn đề của mọi sự vật, hiện
tượng và bất cứ lúc nào cũng có thể tạo nên tiếng cười, khi hài hước lúc hóm
hỉnh và chủ yếu sâu cay nhằm lột trần, bóc mẽ mọi đối tượng, làm nó hiện nguyên
hình, đúng bản chất vốn có của nó.
Tính trào phúng, giễu nhại của ngôn từ Nguyễn Khắc Phê trước hết
được tạo dựng bởi những tổ hợp ngôn ngữ độc đáo. Mỗi nhà văn ưa thích sử dụng
một từ loại, một kiểu ngôn từ riêng. Có thể là những tính từ gợi cảm xúc nhẹ
nhàng, man mác như trong văn Thạch Lam, có thể là những động từ mạnh tạo nên
nhịp điệu dồn dập của tấn trò trong văn Nguyễn Công Hoan. Còn Nguyễn Khắc Phê
lại tự tạo ra những tổ hợp ngôn ngữ độc đáo mới đọc lên rất kì dị, cảm giác như
cộm lên giữa câu văn, làm cho mạch văn của ông không chảy trôi một cách yên
bình mà như có gì vướng lại giữa dòng, buộc người đọc phải dừng lại xem xét,
suy ngẫm như: “Chỉ biết cam chịu theo số
phận…Chị buông nhẹ tiếng thở dài và khẽ lắc đầu như muốn rũ bỏ những ám ảnh
nặng nề của thời quá khứ…” [8, tr. 6],“Mỗi mùa lá bàng nhuốm đỏ rơi và cả khi cành
xèo nụ mới, chị biết tuổi mình dần qua chầm chậm, êm ả mà vô cùng nghiệt ngã,
vì nó vĩnh viễn không bao giờ trở lại…” [8, tr. 7], “Nếu không muốn nói là ánh mắt cam chịu, của một kẻ đang chờ bố thí…” [8,
tr. 9], “Đôi bàn tay răn reo.
Những vụn than quăn queo tơi tả” [8,tr. 17], “…Bỗng thấy vai kịch của mình là hạng bét” [8, tr. 28], “Có tấm lưng ông phải trả tiền; đó là khi
ông đi công tác đến những vùng đất lạ” [8, tr. 40].
Còn rất nhiều những kiểu tổ hợp ngôn ngữ kiểu như vậy chẳng hạn: “là kẻ giác ngộ”, “là hành động thuần túy”,
“là siêu thoát”, “là tình thương không đối tượng”, “ánh mắt cam chịu”, “cô đơn
mà không cô độc”, “sơn nữ thời hậu chiến”, “buổi sáng trầm trọng”, “sa mạc lầm
than”,…Cách tổ hợp ngôn ngữ này thường được tạo ra bằng cách kết hợp bất
ngờ giữa cái trừu tượng và cái cụ thể, vì vậy, chúng có tính gợi hình cao, cảm
giác chạm nổi đối tượng trên mặt giấy. Bởi vậy, Nguyễn Khắc Phê tuy ít tả con
người, sự vật song chỉ cần một hoặc một vài tổ hợp ngôn ngữ đã làm cho đối
tượng như đang hiện ra trước mắt người đọc, cảm giác như sờ vào chúng, chúng
cựa quậy và sống động. Các tổ hợp ngôn ngữ này trở thành những “từ ngữ chiến lược” gửi gắm dụng ý nghệ
thuật của nhà văn. Chúng tạo ấn tượng đột ngột về đối tượng, có tác dụng phóng
đại, làm đối tượng hiện lên với vẻ phi lí trái tự nhiên tầm thường, phô bày cái
bản chất đáng cười của nó. Vì vậy, những tổ hợp ngôn ngữ này thể hiện cái nhìn
đầy tính giễu nhại về đối tượng, giúp Nguyễn Khắc Phê lột trần bóc mẻ mọi đối
tượng bằng sự sắc sảo đầy tinh quái của mình. Chúng tạo nên tiếng cười sâu cay,
đôi lúc tàn nhẫn, có thể “chôn vùi đối
tượng”. Song đó là cái nhìn vào tận đáy sự vật, khám phá cuộc sống từ trong
bản chất.
Bên cạnh việc tạo nên những tổ hợp ngôn ngữ độc đáo, Nguyễn Khắc
Phê còn sử dụng những hình ảnh ẩn dụ, những cách so sánh kì lạ góp phần tạo nên
cái nhìn giễu nhại về đối tượng. Chẳng hạn như kiểu:“Căn cứ vào cuộc hội ý "bộ tam bộ tứ" gì đó [...] Các đống
cành và mấy khúc thân đều được gắn "biển số" để bắt thăm” [8, tr.
243],“Cõi lòng chị - vùng đất như hoang
vắng với mầm cây lạ vừa sa xuống đang phập phồng đón đợi…một ánh chớp, cơn mưa
rào hay là cả trận cuồng phong chị cũng không biết nữa…” [8, tr. 7], “Anh càng thất vọng sâu sắc khi nhận ra
khuôn mặt những kẻ bao lần rao giảng đạo đức liêm chính và tinh thần trách
nhiệm cho anh, cả khuôn mặt thằng bạn giúp việc cho anh nữa, cũng có mặt trái
dơ bẩn của chiếc mề gà” [8, tr. 131], “Cõi
lòng cô như đám đất sét ngày nắng hạn, mầm hạnh phúc gieo vào chưa kịp trổ hoa
kết quả đã lay chực héo khô” [7, tr. 13].
Hay khi so sánh về tình yêu cũng đầy tính giễu nhại: “Lúc này, cái thân hình vững chãi của anh đã
thành một bến bờ cho con thuyền cô ghé lại - con thuyền mang tình yêu và lòng
tin nơi con người suốt mấy ngày qua chao đảo vật vờ đã tìm tới bến đỗ bình yên”
[8, tr. 145]. Khi so sánh về cây bàng: “Cây
bàng chỉ còn một cành sót lại với những chùm lá non tơi tả như cánh tay của
người sắp chết đuối cố vươn lên cầu cứu người qua đường” [8, tr. 242]. Những
so sánh ẩn dụ này thường mở ra hai chiều về sự vật hiện tượng, một chiều tả
thực, một chiều liên tưởng. Mà chiều liên tưởng mới quan trọng. Những hình ảnh
tuy là những liên tưởng tạt ngang, nghe qua thoạt rất vô lý, có vẻ không ăn
khớp nhưng lại là một cách Nguyễn Khắc Phê luận về đối tượng hoặc có khi chỉ
nhằm tới giễu nhại một đối tượng khác. Vì vậy, ngôn ngữ Nguyễn Khắc Phê luôn có
sự dồn nén, cô đúc đầy tính đa nghĩa.
Tính trào phúng, giễu nhại đôi khi còn được Nguyễn Khắc Phê thể
hiện thông qua những kiểu câu văn có mệnh đề phụ. Đây là kiểu câu văn quen
thuộc đặc trưng. Nhà văn với cái cách chú trọng bình diện ngữ nghĩa hơn là cú
pháp đã dồn sức nặng vào mệnh đề phụ hàm chứa thông tin biểu cảm hoặc cách đánh
giá mà chủ yếu là giễu nhại:“Cái đầu lơ
thơ những sợi tóc bạc của ông có thể ví như một nhà máy vẫn nhập nguyên liệu nhưng
không cho ra sản phẩm nào, kho tàng đầy căng, nén chặt đến nỗi không còn chịu
đựng nổi nữa” [8, tr. 148], “Những
ngọn lửa xanh vô tư lớn lên từng ngày, tưởng như dưới lòng đất, có ai đó thường
xuyên thổi chuyền qua thân cây xù xì tới tận mút các lớp cành nhánh mảnh mai
xòe tròn xung quanh chất nhựa xanh kỳ diệu” [8, tr. 241], “Nhựa cây - nước mắt rừng, tứa ra thấm đẫm
các sườn núi mà người chặt cây cười nói râm ran vui vẻ như đi hội” [7, tr.
24], “Nhưng để tránh bọn lâm tặc phát
hiện, anh không phơi mình trên các lối mòn, cứ kiên nhẫn rẽ cây lá lần đi, cho
dù đôi tay và mặt mũi bị gai cào rách tướm máu” [7, tr. 25].
Trong những kiểu câu này, mệnh đề phụ lại làm nên sức nặng ngữ
nghĩa của câu. Nói là cách Nguyễn Khắc Phê bình luận, giễu cợt, mỉa mai những
hiện tượng trong đời sống một cách trào phúng tạo nên những tiếng cười châm
biếm đầy day dứt, xót xa.
Đọc văn của Nguyễn Khắc Phê không thể chỉ đọc thoáng, đọc lướt mà
phải đọc bằng sự suy ngẫm nghiêm túc, không thể chỉ đọc trên bề nổi câu chữ mà
phải đọc ở nghĩa hàm ẩn, không thể chỉ nhìn vào đối tượng đang được đề cập mà
phải liên tưởng đến những vấn đề khác của cuộc sống. Ngôn ngữ của ông vì vậy
ngắn gọn mà tầng tầng lớp lớp những suy nghĩ liên tưởng “người đọc càng nghiền ngẫm càng thú vị và thú vị càng cao thì cái chua
cay càng lớn”. Nguyễn Khắc Phê với kiểu ngôn từ trào phúng, giễu nhại không
chỉ tạo nên một cuộc cách tân về ngôn ngữ, mở ra những khoảng rộng cho ngôn ngữ
trong việc phản ánh thế giới mà còn lưu lại dấu ấn của một cây bút luôn nhìn
đời bằng con mắt giễu cợt chua cay nhưng thấm sâu niềm mong mỏi thiết tha.
Nhịp điệu hiểu được một cách đơn giản nhất
là “sự lặp lại một cách tuần hoàn các âm
mạnh và nhẹ sắp xếp theo một hình thức nhất định” (Từ điển Tiếng Việt). Tiếng Việt là ngôn từ giàu nhịp điệu bởi một
số đặc trưng như là một ngôn ngữ âm tiết tính, có thanh điệu,…. nên rất dễ tạo
nhịp. Dù vậy, thông thường nhịp điệu được khai thác triệt để hơn trong thơ ca,
với mục đích diễn tả nhịp điệu của cảm xúc thể hiện nhạc tính. Trong văn xuôi
cùng với những nhà văn đã khai mở như Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng,…Nguyễn
Khắc Phê đã đưa nhịp điệu trở thành một phương thức biểu hiện chính trong một
số tác phẩm, tạo nên dấu ấn riêng trong sáng tác của ông.
Trước hết, nhịp điệu liên quan đến việc
kiến tạo câu văn mang dấu ấn Nguyễn Khắc Phê. Đó là kiểu câu văn không phân
cách bằng dấu, có xu hướng kéo dài nhịp điệu, giống dạng thức thơ văn xuôi: “Cây bàng ấy, đã bao năm rồi, là chiếc đồng hồ sống đo thời gian, là người
bạn tâm tình của chị. Từng tháng, từng mùa cây bàng thay sắc, mỗi năm thêm một
tán cây xèo nở….Cây bàng, mỗi năm một mùa xuân đâm chồi nảy lộc, những mầm lá
non xòe nở như những ngọn lửa xanh; còn chị, mỗi mùa lá bàng nhuốm đỏ rơi và cả
khi đầu cành xòe nụ mới, chị tự biết tuổi xuân mình dần qua - chầm chậm ê ả mà
vô cùng nghiệt ngã, vì nó vĩnh viễn không bao giờ trở lại. Đêm nay, những cành
cây mảnh mai lại nhú những chùm lá non báo hiệu một mùa xuân nữa lại đến…”[8,
tr. 7].
Nhịp điệu trong trường hợp này hoặc hỗ trợ
cho một liên tưởng phóng túng hoặc tạo nên một ngôn ngữ miên man theo dòng ý
thức. Cũng có khi Nguyễn Khắc Phê thường chồng chất trong câu văn của mình
những vế đăng đối về ngữ pháp để tạo nên nhịp điệu. Có khi là những ký ức về
tuổi thơ: “Trò chơi thật là trẻ con, nhớ
lại đến tức cười mà lại như nuối tiếc…” [8, tr. 26], “Cái thân hình đã hết thời xuân sắc của bà sao có thể sinh thành một
thằng cu bụ bẫm, kháu khỉnh như thế” [7, tr. 42], “Khi quyết định đó đã chín, chín giông bão, chín lặng lẽ anh dành cho
vợ một thái độ thông cảm bao dung, gần như dịu dàng” [9, tr. 325], “Đã đành, ghen tị, so bì không phải là cao
thượng, nhưng con người ta đâu có thể sống chỉ nhờ vào bầu không khí trong sạch
trên các tầng cao; vả lại không so bì biết đâu là lẽ công bằng” [7, tr.
109]. Hay là một sự tự nhủ mà lòng đau đớn và ân hận khôn cùng mỗi khi nhớ lại
về quá khứ của một con người: “Vết thương
thành sẹo không còn nhức nhối, nhưng dù sao mang cái sẹo trong lòng cả nghĩa
đen và nghĩa bóng - chị cũng cảm thấy một sự khiếm khuyết chán nản; chẳng còn
vẻ tự hào, kiêu hãnh của tuổi thanh xuân trinh trắng, cũng không còn gì háo hức
chờ đợi nữa” [8, tr. 103].
Có khi lại là nhịp điệu suy tư lặng lẽ,
nghiền ngẫm của một con người: “Cũng có
lúc ông muốn quên đi, cho tâm linh yên ổn, nhưng đời sống con người ta không dễ
cắt rời ra từng khúc đoạn, không dễ điều khiển bản thân mình; nhất là trong
những giấc mơ, ông cảm thấy mình như bị vụt lên một nơi cao xa lắm, vượt ra
khỏi cách nhìn thông thường, chuyện quá khứ mười năm trước và cuộc sống ngày
hôm nay dường như nhập làm một” [8, tr. 71].
Với nhịp điệu của ngôn từ, người đọc cũng
dường như cuốn theo nhịp điệu và cũng cuốn theo mạch suy tư, cảm xúc của nhà
văn. Tuy nhiên, cách tạo nhịp thông thường và phổ biến nhất trong văn của
Nguyễn Khắc Phê là việc sử dụng phép lặp ngôn từ. Ông đã triệt để khai thác
phép lặp trên mọi bình diện. Có thể là lặp lặp từ: “Chúng tôi mong ông thành thật…Chúng tôi tôn trọng ông là người hiểu
biết. Mong ông suy nghĩ kỹ vì danh dự của mình và tương lai của cháu...Hôm nay
không xong thì ngày mai…” [8, tr. 21], “Bố
đã bảo anh, đừng có dây vào chuyện phức tạp ấy. Bố lại “phức tạp” !Thôi được,
cứ cho là phức tạp đi, nhưng con giúp bố gỡ cái “phức tạp” đó rõ ràng, bố ủng
hộ chứ” [8, tr. 162] tạo nên một nhịp điệu riêng của cảm xúc gần giống như
một lời than thầm vang lên giữa dòng trần thuật khách quan về một nhịp đời lặng
lẽ, nhàm tẻ, vô vị đậm tô một thế giới đóng kín.
Hay đó là cách lặp lời người trần thuật
theo tác giả trong tiểu thuyết: “Cuộc đời
đâu phải là một bài toán đơn giản, tại sao lại cứ buộc phải trả lời “đúng” hay
“sai”? Không A thì ắt phải B, mà không thể là C…” [9] như để mở ra từ tiểu
thuyết ý nghĩa sống còn: vấn đề phải, trái không quan trọng vấn đề là chỗ đứng
và cách nhìn. Hay đó là một thái độ sống, hay một truy vấn đề về giá trị đời
sống không dễ trả lời theo kiểu quyết định luận đúng sai. Nút thắt tâm lý quan
trọng nhất của chữ trong tiểu thuyết, tái lặp lại như những lựa chọn không dễ
dàng, trong trí óc của các đứa con vong thân lại vang lên lời của mẹ: “Biết đâu địa ngục thiên đường là đâu?” [10].
Hay đó câu nói của Thánh Kinh vang lên trong trí óc Tâm mỗi khi gặp biến cố,
lầm lỗi, đau khổ khác thường ở đời. Sự lặp lại đó tạo thành vết tâm lý “thắt”
lại từ đầu đến cuối tiểu thuyết: “Lỗi tại
tôi, lỗi tại tôi mọi đàng !” [9].
Có thể lặp lại những câu gần như nguyên
vẹn ở đầu hoặc cuối mỗi đoạn trong tác phẩm tạo nên một nhịp điệu riêng cho
toàn bài: “Vậy là đêm ấy, chỉ cần một cái
chậc lưỡi của cô là sẽ thành một con người. Vậy là đêm ấy, chỉ trong giây lát,
cô đã bỏ rơi một “cục vàng” để chịu phận trắng tay cho đến hôm nay. Vậy là đêm
ấy, ôi sự đời ai biết thế nào là khôn hay dại” [7, tr. 54], Con hổ thọt à?...Thằng Đức…Hừ!Biết thế…Ý
nghĩ trong đầu y cũng đang loay hoay tìm lối trước năm phương bảy hướng như
thế. Hừ!Biết thế…Con mẹ ấy đang “khát” mà!...Hừ!Biết thế tao liều tấn công từ
lâu rồi!Dở quá ! Đáng ra phải từ hồi trong kho kia…Hừ!Biết thế” [7, tr.
117], “Không! Không đời nào!...Không đời
nào bà quỳ lụy cầu xin một kẻ như thế nữa; không đời nào bà cho thằng Thông
biết nó có một người bố như thế; và bà cũng thầm hiểu: không đời nào lão lại
công nhận có mối quan hệ máu thịt với mẹ con bà” [7, tr. 152].
Đó là sự kiện diễn ra trong cuộc đời của
một con người, sự lặp lại của câu văn không phá vỡ mà chỉ càng làm tô đậm một
nhịp điệu điều đặn, tẻ nhạt. Nó như một điệp khúc càng làm nổi bật một giá trị
về một con người. Đặc biệt hơn việc tạo ra nhịp điệu cho ngôn từ không chỉ để
tạo ra âm hưởng cho văn mà còn cách Nguyễn Khắc Phê thể hiện cuộc sống và con
người theo cách riêng của ông. Những cách lặp đó một mặt nhằm dụng ý phủ định
mạnh mẽ đi đến phá hủy đối tượng một cách không thương tiếc, một mặt tạo nên
một nhịp điệu cảm xúc lan tỏa một chất thơ đằng sau những chữ ngỡ tưởng như sắc
dao.
Trong Thập
giá giữa rừng sâu, ta thấy
Nguyễn Khắc Phê đã sử dụng những phép lặp cố ý về ngôn ngữ “không”, “chẳng”,
“quá”,…lại bày tỏ thái độ châm biếm sâu cay của tác giả, khai tử cho một cách
viết công thức nhàm tẻ về một sự vật hiện tượng: “Nhưng niềm vui, niềm hạnh phúc được giải thoát đã nắm chắc trong tay;
nó bất ngờ quá, lớn lao quá, nó choáng ngợp lấn át tất cả..”,“….Ngọt quá! Mát
quá! Thơm quá! Đức có cảm giác chưa bao giờ được ăn thứ quả nào ngon như thế!
Chỉ tiếc là ít quá, chóng hết quá” [7, tr. 250]. Bên cạnh đó, ta thấy trong
văn của Nguyễn Khắc Phê còn thấy đưa vào những câu ca dao, tục ngữ, thanh ngữ,
vè, lời bài hát,… mang đặc trưng của vùng miền mà quan trọng hơn là thể hiện
được tình yêu thương đối với cuộc sống và con người như: “Gieo gió gặt bão”, “Có thực mới vực được đạo”, “Nhà văn nói láo, nhà
báo nói thêm”, “Con chạch mà đẻ ngọn đa - Con mèo tam thể đi tha cái cày”,
“Cháy nhà ra mặt chuột”, “Lòng trâu cũng như dạ bò”, “Tức nước vỡ bờ”, “Nói gần
nói xa chẳng qua nói thật” [7], “đồng
sàng dị mộng”, “trứng đòi khôn hơn vịt” [8], “Trăng lên đỉnh núi Mu Rùa -
Cho anh đụ chịu, đến mùa trả khoai”, “Được mùa cau, đau mùa lúa” [9],…Hay bài hát Thiên Thai của nhạc sĩ Văn Cao:“Tiếng
ai hát chiều nay vang lừng trên sông”, hay Nguyễn Khắc Phê mượn thơ Tố Hữu,
Phùng Quán, Trần Đăng Khoa,…đưa vào trong tác phẩm làm cho tác phẩm trở nên
trang trọng và cuốn hút người đọc hơn.
Tóm lại, với việc kiến tạo câu văn, sử
dụng những phép lặp cố ý về ngôn từ, Nguyễn Khắc Phê đã tạo nên một ngôn ngữ
giàu nhịp điệu. Ngôn ngữ ấy không chỉ tạo nên một mĩ cảm trong cách cảm nhận mà
còn bổ trợ cho việc thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm. Do đó, đọc văn của
ông, ta không thể bỏ qua những chi tiết nhỏ, bởi đôi khi những chi tiết ấy lại
hàm chứa những lớp nghĩa vô cùng sâu xa.
Việc đưa vào tác phẩm những ngôn ngữ đời sống chưa qua gọt giũa
chính là cách Nguyễn Khắc Phê từ chối sự thuần khiết của ngôn ngữ tiếng Việt
đồng thời giễu nhại tính chất hoa mĩ của ngôn ngữ văn chương từ xưa đến nay.
Đặc biệt, bằng ngôn ngữ đầy cá tính ông đã thể hiện một cách tiếp cận đời sống
từ gốc nhìn cận cảnh - một cái nhìn sát thực không tô vẽ, đắp điếm, không ảo
tưởng. Bởi vậy, ông tạo dựng lên một thế giới như nó vốn có với đầy rẫy những
điều phàm tục, những pha tạp ngổn ngang. Đọc tác phẩm của ông, không thể không
thừa nhận ngôn ngữ đã góp phần quan trọng dựng lên những thảm trạng về đời sống
thực tại, thảm trạng về văn hóa văn minh. Chọn lựa miêu tả một hiện thực bị lộn
trái với tất cả sự đa đoan phức tạp của con người, cách sử dụng ngôn ngữ của
Nguyễn Khắc Phê là hợp lý và thể hiện dụng ý của nhà văn, và Nguyễn Khắc Phê
xem ngôn ngữ là “thứ phương tiện gần như
duy nhất và bắt buộc”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Thị Bình (2003),
“Một vài nhận xét về quan niệm hiện thực trong văn xuôi nước ta từ sau 1975”, Tạp chí Văn học, số 4, tr.21-25.
[2] Trần Thị Mai Nhân (2007), “Quan niệm về tiểu thuyết trong văn
học Việt Nam giai đoạn 1986 - 2000”, http://vienvanhoc.org.vn,
ngày 05/08/2011.
[3] Nhiều tác giả (2011), Biết
đâu địa ngục thiên đường - Bàn và luận, NXB Hội nhà văn, Trung tâm Văn hóa
Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
[4] Nguyễn Khắc Phê (2010), “Từ tiểu thuyết bộ ba đến tính chất tự
truyện của Biết đâu địa ngục thiên đường”,
http://tapchisonghuong.com.vn,
ngày 28/01/2011.
[5] Nguyễn Khắc Phê (2005), “Đã đến lúc cần một cách nhìn toàn
diện, tôn trọng sự thật”, Tạp chí Văn
nghệ Quân đội, số 5, tr.22-24.
[6] Nguyễn Khắc Phê (2006), Hiện
thực và sáng tạo tác phẩm văn nghệ, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
[7] Nguyễn Khắc Phê (2002), Thập
giá giữa rừng sâu, NXB Trẻ, Tp.HCM.
[8] Nguyễn Khắc Phê (2008), Những
ngọn lửa xanh, NXB Phụ nữ, Tp.HCM.
[9] Nguyễn Khắc Phê (2010), Biết
đâu địa ngục thiên đường, NXB Phụ nữ, Tp.HCM
[10] Phạm Phú Phong (1997), Thi
pháp và thi pháp truyện ngắn, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế.
[11] Phùng Văn Tửu (2002), Tiểu
thuyết Pháp hiện đại, những tìm tòi đổi mới, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
[12] Nguyễn Văn Nhật Thành (2011), Đặc điểm nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Khắc Phê, Luận văn Thạc sĩ
KHXH-NV, Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng.
[13] Phùng Gia Thế, “Lý giải về sự khó đọc của tiểu thuyết hiện
nay”, http://phongdiep.net.
[14] Hữu Thỉnh (2010), “Với các cuộc thi tiểu thuyết, tư duy phát
triển văn học trở nên có đường nét hơn”, http://vanvn.net, ngày 21/12/2010.
[15] Lê Xuân Việt (2010),
“Văn xuôi Bình Trị Thiên những năm gần đây”, http://tapchisonghuong.com.vn, ngày
05/07/2010.