Chỉ tính riêng miệt vườn Long Thành – Nhơn Trạch, đợt đầu tiên đã có 81 bà má được Nhà nước phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Có thể nói còn rất nhiều bà má khác cũng xứng đáng với danh hiệu đó. Chiến tranh trôi qua đã lâu, ký ức phôi pha theo thời gian. Có nhiều bà má đã không còn sống đến khi có chủ trương tặng Nhà tình nghĩa và phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng... Các má lặng lẽ ra đi không hề biết đến sự đền bù vật chất hay vinh danh.
Người gây ấn tượng lớn nhất đối với tôi là má Năm Ngôn, nhà ở tận xóm Mút, xã Tam An. Cuộc đời má cũng giống như một cây sầu riêng cổ thụ của miệt vườn, phải chịu bao đắng cay cơ cực nuôi con lớn lên. Các con hy sinh, má tần tảo nuôi cháu. Má là cơ sở cách mạng suốt hai mùa kháng chiến. Ba mươi năm chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ ác liệt thế, gian khổ thế, bây giờ nhớ lại má vẫn quen dùng chữ “hai mùa kháng chiến". Một mùa chín năm và một mùa hai mươi mốt năm. Má không biết chữ nhưng lý lẽ của má trong những lần đối mặt với kẻ thù khiến chúng phải chùn. Có lần tên trưởng bót Tam An gọi má lên dọa:
- Nè, bà Năm. Bà là loại ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng sản.
Má cự lại:
- Ông nói vậy mà nghe được! Tui mần ruộng thấy mẹ mới có lúa ăn. Tui ăn cơm quốc gia hồi nào? Quốc gia cho tui cái gì ông nói thử coi?
Đuối lý, thằng trưởng bót hung hăng quát tháo:
- Bộ bà không sợ sao cứ để con đi theo Cộng sản hoài? Hết đứa này sang đứa khác, chết mất xác mà không tởn!
- Tui cũng sợ chớ. Nhưng tui sợ Cộng sản hơn. Cộng sản không có nhà tù, họ mà đem vô rừng là mất tiêu. Còn các ông có trại giam bắt nhốt chỗ này chỗ kia ai cũng biết. Muốn đi thăm nuôi cũng dễ kiếm thôi hà!
Má trả lời vậy cũng là một cách thách thức: “Tao không sợ, chúng mày muốn bắt thì bắt"! Đời má vô tù ra khám như cóc bỏ đĩa, quen rồi nên hết thấy sợ. Má là người nghĩ ra cách rải truyền đơn ngay trước mắt địch, bằng cách bảo chị em lấy dây thun buộc truyền đơn vào bắp đùi. Đoàn quân tóc dài lên quận, lên tỉnh đấu tranh, nhè lúc đông người lộn xộn, tất cả cùng giật đứt dây cho truyền đơn xổ tung tóe ra đầy đường.
Tôi hỏi má: “Bom pháo, tù tội cực khổ má không sợ, vậy chớ hồi đó mà sợ nhứt là cái gì? Hổng lẽ không sợ cái gì sao má?"
Má cười hồn hậu: “Nói vậy, chớ cũng sợ nhiều thứ lắm. Chẳng ai quen nổi chuyện chết chóc đâu con ơi. Nhưng điều má sợ nhứt là có mấy đứa đằng mình chịu cực không thấu rồi bỏ ra chiêu hồi". Má ngồi lặng một lúc để hồi nhớ rồi kể tiếp: “Khi thằng Hai Tấn, Bí thư huyện ủy Long Thành ra hàng, trời đất ơi, nghe tin đó cả huyện này ai cũng bủn rủn hết. Một mình nó khai báo, phá đằng mình còn hơn bom pháo. “Nghe nói sau vài ngày giải phóng bắt được nó, má lên huyện xin đừng trị tội, cho má nhận nuôi cơm ngày ba bữa rồi bắt nó đi gánh đất lấp hố bom. Mấy ảnh cười biểu: “Cách má làm là sai chủ trương của cách mạng rồi. Tội cha Hai Tấn còn to hơn má nghĩ!".
Không riêng gì má Năm Ngôn, những bà má miệt vườn tôi gặp trong hồi ức của mình đều nhớ lại rằng thời chiến tranh, nỗi lo lớn nhất, thường xuyên nhất là lo con cháu mình bỏ cuộc quay lưng với con đường mà họ đã tự nguyện lựa chọn. Má Ba Ní ở xã Phú Hội, huyện Nhơn Trạch nói: “Hồi đó đi tiếp tế cho cán bộ đằng mình tui cũng sợ lắm chớ. Nhưng đêm nằm nghĩ, anh em đang nhịn đói nằm ngoài rừng không thể nào ngủ được nên ráng mà đi. Gặp tụi nó đi ruồng trong bụng run như thằn lằn đứt đuôi mà cái mặt mình cứ làm bộ tỉnh queo. Vô trong cứ gặp thằng Út nhà tui, nó ôm lấy khóc: “Thấy má cực vầy, con muốn ra chiêu hồi luôn để má khỏi phải đi trốn chui trốn nhủi, rồi có ngày tụi nó bắt má, nó đánh đập má, làm sao con chịu thấu?". Tui phải nói cứng với con: “Đừng nghe con. Dòng họ mình bốn năm chục người hy sinh vì cách mạng rồi. Con ra chiêu hồi làm sao mà ăn ở được với bà con. Con không nghe, má tự tử chết liền! Thôi ráng lên, ráng cho bằng anh bằng em, lỡ có bề gì, chết bỏ!". Sau này anh Út hy sinh anh dũng trong chiến đấu, trong nỗi đau buồn vô tận, má vẫn không hề khóc, chỉ nói: “Thế là nó biết sống xứng đáng với cha anh nó".
Cùng một tâm trạng như má ba Ní, má Bảy Thương ở Phước Thọ ba lần đến trại giam Tân Hiệp – Biên Hòa thăm em là Mười Tuyết đều không gặp mặt, vì đúng thời điểm các tù nhân đang đấu tranh tuyệt thực. Má Bảy quanh quẩn, chờ đợi năn nỉ tụi cai ngục cho xem danh sách những người đầu hàng, khi không thấy tên em mình mới yên bụng ra về. Má Bảy Thương là người đàn bà tật nguyền, đau ốm liên miên, nhưng là người có sức sống kỳ lạ nhờ tin vào cách mạng. Thời kỳ ác liệt nhất, má là sợi dây nối liền lòng chảo Nhơn Trạch với Rừng Sác. Mà là người duy nhất thà chết không chịu rời khỏi vành đai trắng để tìm cách tiếp tế cho anh em Đoàn 10 đặc công thủy và duy kích địa phương. Má thường nói: “Tui không sợ bom đạn, nếu tui chết trong căn hầm này thì nhờ anh em vào lấp đất luôn cho khỏi tốn tiền mua hòm. Tui không sợ nó bắt bớ, cỡ tui nó bắt, nó mất công nuôi cơm, mất tiền thuốc chữa bịnh. Tui chỉ lo anh em mình chịu cực không nổi bỏ ra đầu hàng tụi nó thì nhục nhã không để đâu cho hết!".
Những người mẹ miệt vườn đã ngấm nhiều nỗi đau thương, tang tóc do những tên chiêu hồi gây ra trong suốt ba chục năm chiến tranh. Có thể nói đó là những bài học cay đắng của cách mạng. Ông Tám Hải nguyên Bí thư huyện ủy Long Thành từng đánh giá: “Một cán bộ cấp xã ra chiêu hồi, nó phá ta bằng một đại đội, một cán bộ cấp huyện ra chiêu hồi, nó phá ta bằng một trung đoàn, một cán bộ cấp tỉnh ra chiêu hồi, nó phá ta bằng một sư đoàn. Nhưng trên hết mọi thiệt hại ấy là lòng tin của dân vào cách mạng bị rung động và bao nhiêu người bị bắt bớ, bao nhiêu cơ sở bị đổ bể, bao nhiêu đường dây bị cắt đứt. Phong trào có khi phải nhen nhúm lại từ đầu... Tai họa giáng xuống các bà mẹ thật vô cùng khủng khiếp!".
... Má Hai Phấn đến nay còn nhớ mãi cái ngày Hà Tư nguyên Bí thư huyện ủy ra chiêu hồi. Chiều hôm ấy, má thấy anh ta luồn theo mí vườn vô nhà kêu đói bụng biểu má nấu cơm cho ăn. Nhìn sắc mặt Hà Tư, má hơi nghi ngờ trong bụng liền nhắn với chị Út:
- Mày vô trong bìa ấp nói anh em rút ra rừng giồng đi. Chuyến này không khéo thằng Tư nó ra hàng.
Chị Út đi báo với anh em mà lòng phân vân. Cho dù sao anh Hà Tư cũng là Bí thư huyện ủy. Đúng như chị nghĩ, các đồng chí trong hầm bí mật không ai tin lời má Hai Phấn, lại còn trách: “Bà già hay đa nghi như Tào Tháo!"
Dọn cơm lên cho Hà Tư ăn, má Hai ngồi bên mâm cơm gắp thức ăn cho anh ta, nói thủ thỉ:
- Nè cậu Tư, tui nuôi cậu như vầy cũng là vì cái tình đồng bào với đằng mình, lỡ sau này cậu có đi chiêu hồi nhớ đừng kêu lính bắt tui nghen.
Hà Tư nghe má nói không trả lời chỉ cúi đầu ăn. Và đêm đó anh ta ra chiêu hồi thật. Một loạt hầm bí mật ở xóm Hố bị khui, địch bắt gần hết số cán bộ nằm vùng của Nhơn Trạch. Điều sỉ nhục nhất là má Hai Phấn cũng bị bắt và chính Hà Tư trực tiếp hỏi cung má... Tám tháng trong tù, địch đánh đập tra khảo, bắt phơi nắng, ăn lạt, nhịn khát, má không khai với chúng nửa lời, cũng không thèm chửi bới Hà Tư cho bẩn miệng. Chúng lấy sơn viết khẩu hiệu chống cộng lên áo, má vứt áo cởi trần hàng tháng trời. Bất lực trước ý chí của má, chúng đành phải thả cho má về.
Lòng căm thù giặc của những người mẹ miệt vườn luôn bắt nguồn từ đạo lý dân tộc Việt Nam, chính vì thế bên cạnh đó còn có cả sự bao dung vị tha với những kẻ lầm đường lỡ bước. Hai yếu tố ấy đã làm nên tính cách tuyệt vời khiến kẻ thù phải khiếp sợ chùn tay trước tội ác.
Người dân xã Đại Phước đến bây giờ vẫn còn nhắc mãi chuyện má Sáu Lầu, một người mẹ Việt Nam Anh hùng nổi tiếng. Má là cơ sở cách mạng, suốt một đời lo làm lụng để tiếp tế cho anh em. Giặc tìm cách triệt tiêu nguồn tiếp tế lương thực. Lúa vừa gặt về là tên xã trưởng Thời cho lính xuống xúc bằng hết. Má giấu năm chục giạ nếp dưới cây rơm để gói bánh tét cho anh em ăn Tết chúng cũng tìm ra. Chúng xúc cả lúa giống, má giằng lấy:
- Để chỗ này lại cho tao mần ăn, đặng có lúa, sang năm tới mà xúc. Không có lúa bay xúc cứt về bót hả?
Ba năm liền tên xã trưởng Thời xúc lúa, bắt gà vịt chặt đầu chặt cánh quăng lung tung, chỉ đem mỗi cái mình về nhậu. Má vẫn cắn răng chịu. Sau này hòa bình, tên Thời đi học tập cải tạo về, vợ con đói khổ, má gọi hắn đến cho mượn ruộng, mượn trâu cày. Nhiều người ngạc nhiên, má đáp rành rẽ: “Ngày trước nó xúc lúa trong bồ của tui, bụng chứa đầy gươm đao, giờ tui không thèm cá nhân. Sông có khúc, người có lúc".
Chính má có lần phải đối mặt với những kẻ chiêu hồi nhưng có lẽ đức độ của má đã khiến họ không dám phá hoại cách mạng. Tên thứ nhất má tình cờ nhìn thấy ngoài chợ, liền quay mặt tính tìm cách né. Hắn bước tới vỗ vai má: “Khỏe không bà già?" Má giả bộ: “Lâu quá trời nghe, tao biết mày ra rồi nhưng chưa đi thăm được...". Hắn nói nhỏ chỉ để mình má nghe: “Má thấy tui, má sợ gần chết chớ thăm nom gì!" Má quắc mắt: “Mày nói không lọt tai rồi. Vậy chớ mày định làm gì tao, nói thử coi?" hắn liền lảng mất. Suốt cả tháng trời má chờ đợi nhưng không thấy hắn dẫn lính tới bắt mình. Tên thứ hai má cũng gặp ngoài chợ. Tránh không kịp, má đành bước tới nhìn thẳng vô mặt hắn. Hắn hỏi: “Má có sợ tui không?" Ruột má teo lại nhưng vẫn nói cứng: “Tao việc gì phải sợ mày? Ngon thì kêu lính bắt tao đi!" Hắn cúi mặt xuống nói: “Đừng sợ nghe má. Tui ăn của má, hột cơm còn dính kẽ răng. Tui không bao giờ dám làm hại má đâu!" Tên thứ ba, gởi thư mời má lên Sài Gòn gặp. Má đành phải đi, không đi không được. Sống trong lòng địch bị bắt là chuyện cơm bữa. Không đi nó nghĩ mình sợ nên má phải đi nhưng trong bụng đầy lo lắng, tự hỏi cái thằng này nó định giờ trò gì? Má đến tận nhà riêng của hắn với bộ dạng thật ung dung. Hắn nói: “Tui nhớ má, hẹn má lên chơi vài bữa cho đỡ nhớ. Cái mặt tui làm sao dám về dưới gặp ai nữa." Má cười: “Tao lại tưởng mày hẹn tao lên đây bắt bỏ tù lãnh thưởng". Hắn năn nỉ: “Tui chịu không nổi tui ra chiêu hồi, chớ nào phải lòng dạ bất trắc. Nhờ má cầm ít đồ về cho anh em, tạ lỗi giùm tui, xin má nhận thay anh em bốn lạy". Má đỡ hắn dậy, nói nhẹ nhàng: “Lỗi của mày không chuộc được đâu! Tu cho trọn đạo thì nên biết điều nhân nghĩa mà sống cho qua tháng ngày". Cả ba tên này sau khi học tập cải tạo về đều tìm đến thăm má. Họ coi má là ân nhân vì chính má đã chứng nhân cho họ biết hối hận không góp phần tiếp tay cho địch. Tuy trong bụng, má thừa biết kẻ chiêu hồi nào tay chẳng trót nhúng tràm!
***
Người miệt vườn ai cũng biết một địa danh nổi tiếng, đó là xóm Hố ở xã Phú Hội huyện Nhơn Trạch:
Suối Nước Trong, giếng Mạch Bà
Sầu riêng Phú Hội, chuối già Long nguyên
Có thể gọi xóm Hố là cái nôi của sầu riêng. Những ngôi nhà, những con người ở đây sinh ra, lớn lên và chết đi dưới bóng mát cây sầu riêng. Giếng Mạch bà là nguồn nước ngon ngọt nuôi dưỡng con người và trái cây xóm Hố. Suốt hai cuộc chiến tranh, Phú Hội có hơn tám trăm liệt sĩ, cũng là xã có nhiều bà mẹ Việt Nam Anh hùng nhất tỉnh Đồng Nai. Chuyện về cuộc đời các má chẳng bút mực nào tả hết. Mỗi khi về xóm Hố tôi thường ghé nhà má Ba Sắc ăn cơm. Trí nhớ của má thật lạ kỳ, dù đã hơn tám mươi tuổi rồi. Người con trai cả của má là anh Hai Lực nguyên trưởng ban an ninh huyện thời chống Mỹ. Nghe tên anh là tụi lính khiếp sợ vì hành tung xuất quỷ nhập thần. Một mình anh bắt sống cả toán lính bình định, tước hết vũ khí rồi thả cho về. Một mình anh cầm theo trái lựu đạn đang ngang nhiên ra chợ Phước Thọ mua đồ, tụi lính nhìn thấy vội vàng lảng tránh không tên nào dám hó hé...
Khi bị cấp trên khiển trách về hành động phiêu lưu, anh chỉ cười trừ nhận khuyết điểm rồi đổ tại vì bữa đó thèm thuốc quá. Tổ của anh đi công tác Phước Kiểng bị phục kích trúng mìn clây-mo, hai đồng đội hy sinh, riêng anh bị dập hai chân, nằm tại chỗ rút súng ngắn bắn tới viên đạn cuối cùng. Bọn địch sợ đến mức không tên nào dám lại gần xác anh dù biết anh đã chết. Má Ba Sắc bình thản nhận anh về làm đám ma. Tên trưởng bót nói với đám lính: “Ổng đi rồi, chắc tết này tụi mình yên tâm ăn tết". Không ngờ do bất cẩn, đúng tết, bót Phú Hội bị cháy trụi. Sáng sớm cả bót ngơ ngác khi thấy má Ba Sắc gánh vào cho chúng hai chục lít gạo và mười mấy đòn bánh tét. Má nói: “Mấy thứ này tao sắm cho thằng Hai về ăn tết nhưng nó chết rồi, tao đem ra cho tụi bay ăn. Anh em ráng biểu nhau sống sao cho đặng thì mới yên với dân Phú Hội này". Tụi lính bủn rủn tinh thần rủ nhau bỏ trốn và mang súng về nộp cho cách mạng... Sau này nhiều người bảo má chỉ cần tay không diệt bót đề nghị khen thưởng, má cười tủm tỉm rồi gạt đi: “Tại tụi lính nó nhát chớ đâu phải do tao".
Gần hai mươi năm nay tôi vẫn phải đi về miệt vườn như những cuộc hành hương. Lòng bồi hồi nhớ về các má ngày xưa. Miệt vườn vẫn xanh mát và thoảng đưa hương trái chín. Những người mẹ miệt vườn tôi gặp cứ ám ảnh tôi trong tâm tưởng. Thời gian trôi. Cây đến mùa lại ra hoa, trái đến mùa trái chín.Các má già lắm rồi và cứ lần lượt ra đi, lặng lẽ hóa thân vào đất miệt vườn. Những trang bản thảo mong manh như lá cây vườn rơi rụng làm sao nói hết được ân nghĩa các bà má để lại cho đời. Chẳng có tượng đài nào đủ tầm cao rộng tương xứng với sự bao la kỳ vĩ như tấm lòng của những người mẹ miệt vườn…
N.Đ.T – 1996
Nguồn: Văn nghệ Đồng Nai số 82 (Tháng 12 năm 2024)