Thứ 6 - 26/02/2016
Màu đỏ Màu xanh nước biển Màu vàng Màu xanh lá cây
Chào mừng kỷ niệm 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025)
Chào mừng Đại hội Hội Văn học Nghệ thuật Đồng Nai lần thứ VII (nhiệm kỳ 2025 - 2030)
“Rực rỡ sắc mai vàng, mừng Đảng, mừng Xuân, mừng Đất nước vươn cao tầm đổi mới; Thắm tươi màu cờ đỏ, chúc Đoàn, chúc Hội, chúc Đồng Nai nỗ lực để thành công" (Dương Thanh)
TRƯỚC NGÀY TOÀN THẮNG

 

Một lần tôi ra Hà Nội, tới nhà riêng Vũ Văn Chiến - Đại tá, nguyên Trưởng phòng Chính sách Binh chủng Đặc công, vừa mới nghỉ hưu tại xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì, Hà Nội - là người cùng Trung đoàn Đặc công 113 (nay là Lữ đoàn Đặc công bộ 113). Anh em cùng lâu ngày gặp nhau, dốc bầu hàn huyên tâm sự. Khi nhắc đến kỷ niệm về trận đánh trước ngày toàn thắng 30/4/1975 lịch sử, giọng đồng đội Vũ Văn Chiến như chùng xuống, lúc sau anh bình tâm trở lại và câu chuyện giữa chúng tôi được tiếp nối.

***

Chiến hồi tưởng: để tiến vào dinh luỹ cuối cùng, thực hiện triệt để Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, Tiểu đoàn 23 đặc công nằm trong đội hình Trung đoàn 113 có nhiệm vụ đánh chiếm, bảo vệ cầu Ghềnh và cầu Hóa An (Cầu Mới) ở thị xã Biên Hòa, giúp mở thông đường cho các cánh quân ta thần tốc tiến vào giải phóng Sài Gòn. Lực lượng chúng tôi gồm hai đại đội (13 và 14). Lúc ấy, tôi là Chính trị viên, Bí thư Chi bộ Đại đội 13.

Từ ngày 20 đến 23/4/1975, chúng tôi đóng tại vị trí giấu quân (Nhà Nai, Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa). Đêm 24 rạng ngày 25/4, được lệnh xuất phát hành quân cơ động, tiếp cận mục tiêu, bí mật bất ngờ xây dựng công sự trận địa, không ngừng thực hiện các thủ đoạn trinh sát, quan sát mọi di biến của địch, sẵn sàng nổ súng khi có lệnh. Thời điểm này, mặc dù địch đã rất hoang mang vì đã bị dồn đến chân tường sau thất thủ Xuân Lộc, ngã ba Dầu Giây, nhưng lực lượng chúng trong thị xã Biên Hòa và khu vực phụ cận hầu như còn nguyên vẹn, quyết tử thủ đến cùng. Nếu phát hiện lực lượng ta, nhất định chúng không để yên.

Đúng như dự cảm của chúng tôi, ngay từ ngày đầu, địch huy động một trung đoàn dã chiến; tăng cường các loại hỏa lực pháo binh, xe tăng và máy bay trực thăng võ trang yểm trợ. Trước trận đánh lịch sử này, ban chỉ huy đơn vị đã quyết định tổ chức 3 lực lượng chính, trong đó có 2 lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ đánh chiếm cầu, sau đó tiếp tục bố trí chốt giữ không để địch lấy lại. Lực lượng còn lại làm nhiệm vụ dọn đường, tiễu trừ thám báo. Để có thể hỗ trợ nhau giữa các lực lượng, trung đoàn còn lập sở chỉ huy tiểu đoàn tăng cường để trực tiếp chỉ huy 3 lực lượng chiến đấu. Khoảng 4 giờ 30 phút ngày 27/4, lực lượng đảm nhiệm đánh cầu Ghềnh và cầu Hóa An bắt đầu xuất kích, đối đầu ngay với địch tại các khu vực đầu cầu. Với sự tinh nhuệ, dũng cảm, chỉ sau 30 phút, các mũi tiến công ta đánh bật địch khỏi các chốt trên cầu. Lúc này cả hai cầu, chúng tôi đều đã đánh bật địch, chiếm giữ được các mục tiêu.

Tuy nhiên, chỉ 4 tiếng sau, địch huy động các giàn pháo lớn ở các căn cứ: Hốc Bà Thức (Biên Hòa), căn cứ Nước Trong (Long Thành), Long Bình và trận địa pháo hỗn hợp dốc Ông Hoàng ở vành đai Biên Hòa tới tấp giã vào trận địa. Khi pháo vừa dứt, địch bắt đầu sử dụng bộ binh tràn vào, tấn công áp đảo. Tiếp đó, chúng sử dụng biệt động quân, xe tăng thọc vào sở chỉ huy trực tiếp của ta và các chốt đang giữ, quyết tâm chiếm lại 2 cây cầu vừa bị ta chiếm.

Sau gần 2 giờ chiến đấu giằng co, các chiến sĩ đặc công ta kiên cường bám trụ, đánh bật đợt phản công của địch. Nhưng ngay lập tức, máy bay địch đã xuất hiện, quần thảo trên cao để quan sát trận địa phòng ngự của đơn vị. Khi máy bay vừa đi khỏi thì địch lại cho pháo tiếp tục nã xuống, cứ lặp đi lặp lại như vậy liên tục trong suốt ngày 27/4/1975. Trong ngày, các chiến sĩ đặc công đã ngoan cường đánh bật tổng cộng 4 đợt phản kích của địch.

Qua hai ngày chiến đấu, ta thu hơn 100 khẩu súng đã phản ảnh phần nào số địch bị tiêu diệt. Suốt ngày 28, chúng tăng cường đánh phá các khu dân cư gần đó ở Bửu Hòa và Hóa An, vì chúng đoán quân ta lợi dụng địa hình làng mạc để ẩn nấp. Song trước đó, dân đã sơ tán nên sự tổn thất về người có phần hạn chế. Ngày 28, có thể nói là một ngày máu lửa đối với chúng tôi.

Khoảng 8 giờ sáng, một đoàn xe tăng nối đuôi nhau ầm ầm mặt đất. Tôi nép mình bên thành công sự đếm được hơn 30 chiếc bao gồm xe tăng M41 - M48, thiết giáp M113. Sau khi chiếm lĩnh, triển khai đội hình trên những cánh đồng ấp Tân Mỹ và Tân Bản xã Bửu Hòa, một số chiếc đột kích vào trận địa Đại đội 13 và 14 chúng tôi. Nhưng một số chiếc lại bị trúng đạn chống tăng ĐKZ và B41 của ta đã bốc cháy, làm cho đồng bọn phải dè chừng. Song, bọn sĩ quan nguỵ thúc ép, địch dựa vào thế đông, vũ khí mạnh, bắn bừa bãi vào phía trận địa ta, mức độ thương vong lại tăng vọt lên.

Buổi tối, khi địch ngừng tấn công, các chiến sĩ ta xốc lại đội hình, củng cố công sự, tiếp tục bố trí lực lượng, sẵn sàng chống lại các đợt phản công mới của địch. Đúng như phán đoán, mờ sáng hôm sau, địch đã cho 5 máy bay trực thăng từ sân bay Biên Hòa lao đến trận địa, xả đạn vào các vị trí giữ cầu. Do áp đảo về quân số nên chiều 28/4, địch đã chiếm lại được cầu Ghềnh. Song, được sự giúp đỡ của nhân dân và các lực lượng địa phương, ngay tối 28/4, các chiến sĩ đặc công đã tổ chức tiến công đánh bật quân địch, chiếm lại cầu lần nữa. Sau 3 ngày phòng thủ kiên cường, trước sự tấn công mãnh liệt của pháo và bộ binh, xe tăng địch, các chiến sĩ đặc công đã xuất sắc giữ vững trận địa, không để địch chiếm lại 2 cây cầu. Tôi còn nhớ rất rõ rằng, tiểu đoàn cùng với đại đội tôi chiếm giữ một quả đồi cạnh cầu Hang, khống chế con đường từ Biên Hòa đi Thủ Đức. Đây như là cái “đinh gai" trêu ngươi, nên địch quyết tâm nhổ với bất cứ giá nào!

Sáng 29/4, dòng người di tản nối nhau nườm nượp, trong đó có những sĩ quan, binh lính nguỵ mặc thường phục trà trộn nên chúng tôi không thể phát huy được hỏa lực, chỉ bắn tỉa nếu xác định được đó là sĩ quan hoặc cảnh sát ngụy tháo chạy. Mặc dầu đã đến ngày tàn, nhưng với bản chất ngoan cố, chúng vẫn ra sức kháng cự. Biết trận địa của chúng tôi cách 700 đến 800 mét nhưng chúng chỉ nã pháo từ xe tăng chứ bộ binh không dám bén mảng vào. Đến trưa 29/4, khi quân giải phóng ta tiến công địch, đơn vị đã chớp thời cơ đồng loạt tiến công khiến quân địch bỏ chạy. Chiều ngày 29, chúng mở đợt công kích cuối cùng vào Đại đội 13 xung lực. Còn Đại đội 14 hỏa lực 12,7 mm phòng không thì chúng còn rất dè chừng. Giằng co đến 5 giờ chiều, gặp lúc trời đổ mưa dông khá lớn, nước chảy tràn lan, cũng là lúc chúng lui quân theo hướng Dĩ An và Sóng Thần. Trận địa trở lại yên ắng. Sáng 30/4, các chiến sĩ Trung đoàn 113 đã cùng những người lính Quân đoàn 4 tiến về giải phóng Sài Gòn, đi qua các cây cầu mà họ đã chiến đấu quả cảm, đổ bao xương máu để giữ vững...

Qua mấy ngày giằng co quyết liệt, có lúc địch tạm thời chiếm được cầu nhưng ban đêm ta tổ chức tập kích đẩy chúng ra khỏi mục tiêu. Tuy nhiên, do bộc lộ lực lượng sớm, trong lúc đại quân ta còn ở xa nên địch đã tập trung đối phó rất quyết liệt gây cho Tiểu đoàn 23 tổn thất nặng nề, nhiều anh em đã ngã xuống trước ngày toàn thắng.

***

Còn với Tư Dĩ, một người con của Đồng bằng sông Cửu Long, tiếng nói của anh cũng ầm ào như sóng. Giữa tháng 5/1975, trong hội nghị Tổng kết mừng công được tổ chức tại Thành Quan Năm, TP. Sài Gòn vừa mới im tiếng súng, Đại đội trưởng Tư Dĩ sôi nổi chính kiến:

- Nhưng cái gì thế kia? Những tiếng nổ đanh dồn dập của B40, B41, ĐKZ 82 mm xen lẫn những tràng tiểu liên, trung liên, trọng liên 12,7 mm của hai cánh quân ta đánh thẳng vào đội hình địch, chặn đứng bọn biệt động quân và lính dù ngụy có xe tăng yểm trợ phản kích hòng chiếm lại cầu. Bị giáng trả quyết liệt, bọn phía trước không tiến lên được, đội hình phía sau ùn lại. Tận dụng thời cơ, trận địa cối 82 mm của chúng tôi bắn cấp tập vào đội hình địch, gây cho chúng tổn thất nặng nề, một số chết, số bị thương, số còn lại chạy nhốn nháo. Nhìn cảnh tượng ấy có đồng chí bỗng thốt lên:

- Đánh cừ lắm! Rất bài bản. Như để trả lời đồng chí ấy, tôi nói: Đúng bài bản đấy! Nhưng bọn chúng lại xông lên bây giờ, chuẩn bị đi thì vừa.

Đúng vậy! Tiếng súng lại rộ lên từ phía hai cầu. Tiếng động cơ xe tăng địch gầm rú, không gian như vỡ ra, đợt phản kích thứ 2 của địch bắt đầu. Cứ vậy, suốt ngày 27/4, qua bốn đợt dùng xung lực, dưới sự yểm trợ tối đa của pháo, xe tăng, máy bay tấn công quyết liệt nhằm đánh bật ta ra khỏi cầu, nhưng chúng đều thất bại. Ngày 28/4, mới mờ sáng, các trận địa pháo của địch bắn liên tiếp vào các chốt của ta. Sau đó, năm trực thăng vũ trang địch từ hướng sân bay Tân Sơn Nhất tới bắn hỏa tiễn và đạn 12,8 mm xuống trận địa ta, mở các đợt tiến công tiếp theo của bộ binh địch kết hợp với xe tăng nhằm chiếm lại cầu. 10 giờ sáng ngày 28/4, cùng lúc đánh chiếm lại hai cầu, địch còn dùng một tiểu đoàn đánh vào Sở Chỉ huy ta. Được du kích phối hợp, nhân dân lo cơm nước, cứu chữa, chăm sóc thương binh, lực lượng ta bám trụ kiên cường, giáng trả địch quyết liệt, tiêu diệt nhiều tên, buộc chúng phải tháo chạy.

Ở hướng cầu Ghềnh, hôm đó do lực lượng không cân sức, địch tạm chiếm lại được cầu, nhưng ngay trong đêm 28/4, ta tổ chức lực lượng phản kích, chiếm lại cầu. Ngày 29/4, sau nhiều lần máy bay trinh sát L19 thăm dò lực lượng ta, vẫn theo nếp cũ, pháo địch lại bắn phá điên cuồng vào các chốt của ta. Lần này, chúng sử dụng hai tiểu đoàn bộ binh kết hợp xe tăng đánh vào hai cầu và chốt của ta ở cầu Hang. Đại đội 1, Tiểu đoàn 23 và Đại đội pháo của Tiểu đoàn 174 chiếm lĩnh địa hình, đánh lui nhiều đợt tiến công của địch, diệt hàng trăm tên, bắn cháy 5 xe tăng. Ba đồng chí Ban Chỉ huy Đại đội 1 bị địch bao vây, mất liên lạc với đơn vị, các đồng chí vẫn chiến đấu rất kiên cường, vừa nghi binh đánh lừa địch, vừa chiến đấu diệt nhiều tên, nhằm kéo dài cuộc chiến không cân sức với hàng trăm tên lính ngụy, chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và anh dũng hy sinh tại trận địa. Tại cầu Hóa An, chiến sĩ ta ngoan cường giành giật từng tấc với địch để giữ cầu.

Ngoài lực lượng địch đánh chiếm hai cầu, địch dùng lực lượng mạnh nhằm đánh bật chốt cầu Hang do đại đội pháo ta chiếm giữ. Đây là vị trí rất quan trọng, không những chi viện trực tiếp lực lượng chốt giữ cầu mà còn là vị trí “yết hầu" nhằm án ngữ hướng địch rút chạy về Sài Gòn, đồng thời, ngăn chặn địch từ Thủ Đức, Dĩ An lên chi viện cho lực lượng của chúng phản công chiếm lại cầu.

Mờ sáng 29/4, tổ cảnh giới ta báo cáo gấp, bộ binh địch từ hướng cầu Hóa An theo trục lộ tiến về phía ta. Khi tốp đi đầu cách trận địa ta 100 m rồi 50 m, lập tức các cỡ súng AK, trung liên, B40 đồng loạt nổ. Xác địch liên tiếp đổ xuống mặt lộ và rải rác ở các thửa ruộng, số còn lại chạy tán loạn. Bị đòn phủ đầu choáng váng, chúng không dám tiến lên nữa, lợi dụng bờ ruộng, mương cạn ẩn nấp và gọi pháo bắn vào chốt của ta.

Loạt pháo cuối cùng của chúng vừa dứt, trên trục lộ xuất hiện 6 xe tăng nối đuôi chạy về hướng chúng tôi. Tiếng xích sắt và động cơ ầm ầm, mặt đất rung chuyển. Chiếc đi đầu vừa chạy vừa bắn xối xả về phía chốt. Lợi dụng các thửa ruộng khô hai bên lộ, chúng triển khai đội hình cách trận địa ta khoảng 300 m. Khẩu đội ĐKZ 82 của đồng chí Nghị ở gần chiếc M41 đi đầu nhất, pháo thủ số 1 Lã Văn Điều đề nghị khẩu đội trưởng cho bắn, nhưng anh Nghị nhắc Điều cứ để chúng đến thật gần. Khi khối thép di động cách trận địa chưa đầy 100m, 2 khẩu ĐKZ chồm lên, hai tiếng nổ như đồng thời cùng lúc, chiếc M41 trúng đạn bốc cháy. Chiếc thứ hai của chúng vượt lên và chịu chung số phận. Bốn chiếc còn lại bắn xối xả về phía ta và tiếp tục xông lên. Đồng chí Nghị hạ lệnh nạp đạn tiếp, nhưng lúc này chân ĐKZ bị mảnh đạn địch tiện gãy. Khẩu đội trưởng hy sinh, một số đồng chí khác bị thương, đồng chí Điều cũng bị thương vào trán, máu chảy tràn xuống mũi và một bên mắt chưa kịp băng bó.

Khi chúng tôi đang định cho khẩu đội ngưng bắn, lui về phía sau, nhưng thật bất ngờ, đồng chí Điều bật dậy khỏi công sự, đứng thẳng, tư thế hiên ngang với nòng ĐKZ còn nóng bỏng vai, động tác chính xác, giật cò. Chiếc xe tăng thứ 3 của địch bốc cháy, những chiếc còn lại đứng tại chỗ không dám tiến lên, chỉ dùng hỏa lực bắn xối xả vào chốt ta. Điều nạp tiếp quả đạn thứ 4, nhưng... chưa kịp giật cò thì đạn địch bắn trúng nòng khẩu ĐKZ, quả đạn trong nòng phát nổ. Đồng chí Điều đã anh dũng hy sinh trong tư thế ngẩng cao đầu. Noi gương anh, các khẩu tới tấp nã đạn vào quân địch. Những chiếc tăng địch còn lại vội vã quay đầu bỏ chạy, bộ binh của chúng hoảng sợ, bám theo chạy thục mạng về hướng Xóm Chùa.

Ở hướng khác, Nguyễn Tiến Huân, trinh sát viên của tiểu đoàn tăng cường cho đơn vị. Khi xạ thủ B41 bị thương, Huân xin thay thế, đã bắn cháy 2 xe tăng địch. Khi Huân bị thương vẫn không rời trận địa, anh ở lại cùng đại đội đánh lui nhiều đợt địch phản công, diệt nhiều tên. Khoảng 12 giờ trưa địch chuyển hướng phản công từ chính diện sang cạnh sườn, chúng sử dụng 9 xe tăng kết hợp với bộ binh tiến công phía sườn trái chúng tôi. Xe tăng địch chạy băng băng trên các thửa ruộng hòng chiếm lấy dãy đồi cao, cách chúng tôi khoảng 800 m (nay là khu khai thác đá), dùng pháo trên xe bắn xối xả vào đội hình ta. Ở hướng chính diện, chúng dùng xe kéo hai khẩu pháo 105 mm, đặt ngay trên lộ bắn thẳng vào chốt; đồng thời, cối 106,7 mm trên núi Châu Thới cũng bắn dồn dập vào đội hình phía sau và trận địa cối 82 mm của ta. Đợt tập kích hỏa lực của chúng làm sập một số công sự, một số đồng chí hy sinh và bị thương. Trước tình hình đó, chúng tôi hội ý cán bộ hạ quyết tâm “Còn người còn trận địa", bất luận tình huống nào, trận địa phải giữ vững. Do vậy, ta một mặt điều chỉnh binh hỏa lực, củng cố công sự, bố trí đội hình hợp lý; mặt khác, cán bộ đến từng tổ chiến đấu động viên anh em, củng cố quyết tâm và đề nghị cấp trên chi viện hỏa lực.

Từ Sở Chỉ huy, đồng chí Đinh Xuân Nghiêm, Tham mưu trưởng Trung đoàn động viên chúng tôi phải giữ được trận địa bằng mọi giá. Trung đoàn sẽ chi viện, cần hiệp đồng chặt chẽ với Đại đội 8 quan sát hiệu chỉnh bắn cho tốt, sau cùng anh thông báo: “Đại quân ta đã tiến gần tới chỗ các đồng chí, cần giữ vững quyết tâm".

Sau khi chúng tôi hiệu chỉnh đạn xong, bắn thử. Từ trận địa phía sau, từng loạt, từng loạt hỏa tiễn ĐKB của Đại đội 8 bắn cấp tập vào cụm bộ binh, xe tăng và trận địa cối của địch trên núi Châu Thới. Phối hợp với trận địa ĐKB, trận địa cối 82 mm của chúng tôi tới tấp nhả đạn vào hai khẩu pháo 105 mm của địch đặt trên lộ. Đạn pháo và cối ta trùm lên các mục tiêu địch, phá hủy 01 khẩu 105 mm, trận địa cối trên núi Châu Thới câm họng, số còn lại phải bỏ chạy. Đội hình địch lúc này càng nhốn nháo, cuối cùng chúng phải tháo chạy bỏ dở cuộc phản công đánh chiếm cầu Hang.

Mặt trời đã khuất sau rặng núi phía xa, những tia nắng cuối cùng tắt hẳn. Không gian dịu lại khi màn đêm buông xuống, chúng tôi sơ bộ tổng hợp tình hình. Trong ngày, đơn vị đã đánh lui 5 đợt phản kích của địch, diệt hàng trăm tên; bắn cháy 7 xe tăng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Với bà con nhân dân quanh khu vực trận địa, trong lúc nhà cửa tan hoang do bom đạn địch tàn phá, nhưng cô bác hết lòng chăm sóc thương binh, lo hậu sự tẩm liệm, mai táng tử sĩ… ai cũng nước mắt lưng tròng. Trước tình cảm trong thời khắc trước ngày toàn thắng, anh em chúng tôi vô cùng xúc động. Trận chiến đấu giành đi giật lại từng mố cầu, nhịp cầu, mét đất, ta giành toàn thắng, nhưng 53 cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn Đặc công 113 đã ngã xuống bên bờ sông Đồng Nai, tiếc thương những người không đến kịp Sài Gòn trong giờ toàn thắng. Kết thúc lời phát biểu đầy hào sảng của mình, Tư Dĩ đã đọc mấy câu thơ đầy xúc động: “Có người ngã xuống giữa đêm đông/ Có người ngã lúc ánh hồng bình minh/ Hôm nay vui nghĩa vui tình/ Vui sao mà nước mắt mình cứ rơi!".

N.Q.H

​Nguồn: Văn nghệ Đồng Nai số 86 (Tháng 4 năm 2025)


NGUYỄN QUỐC HOÀN
Object reference not set to an instance of an object.

Liên kết webiste

Thăm dò ý kiến

Đánh giá về trang thông tin điện tử Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đồng Nai

 

Số lượt truy cập

Trong ngày:
Tất cả:

HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT ĐỒNG NAI
Địa chỉ: 30 Đường Nguyễn Ái Quốc, P.Tân Tiến, Thành phố Biên Hoà, Đồng Nai
Điện thoại : 02513.822.992; Email: hvhnt@dongnai.gov.vn
Chịu trách nhiệm xuất bản: NSND. Đạo diễn Giang Mạnh Hà – Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đồng Nai.
Trưởng Ban biên tập: Trần Thu Hằng​​