Thời gian có thể xoa dịu mọi vết thương, rằng những nỗi đau rồi cũng sẽ lùi xa vào quá khứ. Nhưng khi nhìn những đôi mắt đỏ hoe, những bàn tay run run siết chặt nhau giữa nghĩa trang liệt sĩ, tôi mới hiểu có những nỗi nhớ không thể phai mờ, có những tình cảm vĩnh viễn không thể thay thế.
Tôi là người chứng kiến tình đồng đội của bạn tôi - một thứ tình cảm không thể gọi tên bằng những ngôn từ thông thường. Nó là nỗi day dứt khôn nguôi, là ký ức không thể tách rời, là sợi dây vô hình nối những người còn sống với những người đã khuất. Và câu chuyện tôi sắp kể sẽ là một minh chứng cho điều đó…
Những người lính năm xưa, dù tóc đã bạc, lưng đã còng, nhưng trong ánh mắt họ vẫn vẹn nguyên hình bóng đồng đội một thời. Họ trở về chiến trường xưa, không chỉ để tưởng nhớ mà như đang lắng nghe những lời thì thầm của đồng đội cũ, những người đã nằm lại nơi đây mãi mãi. Họ cúi đầu trước từng tấm bia, đôi mắt nhòa đi trong làn khói hương, như thể vẫn còn thấy đồng đội mình đứng đó, cười cợt trêu đùa nhau như để át đi sự tàn khốc giữa tiếng bom đạn ngày nào.
Tháng Tư năm 2024, tôi nhận được cuộc gọi từ anh Nguyễn Quang Vinh, giọng vẫn hào sảng như ngày nào: “Đang trên tàu vào Nam đây, chuẩn bị mà đón tiếp nhé, năm chiến sĩ!"
Nghe tin mà lòng tôi rộn ràng. Những người anh em thân thiết sắp tụ họp: vợ chồng Vinh từ Bắc Kạn, vợ chồng Thoan từ Quảng Bình và Lăng từ Thanh Hóa. Tôi phấn khích đáp ngay: “Ok! Ok!"
Dưới cái nắng gay gắt của tháng Tư, chúng tôi thuê một chiếc xe 7 chỗ, lao nhanh từ thành phố Biên Hòa về ngã tư An Sương theo tuyến Quốc lộ 1. Cái nóng oi ả là vậy, nhưng chẳng thể làm chậm bước chân của những con người đang háo hức tìm về ký ức thiêng liêng.
Khi xe vừa chạm đến cầu Bình Phước 1, Vinh cất giọng nhẹ mà rõ, mà đượm buồn, như thể ngưng nghẹn: “Đây… Nguyên hy sinh ngay trên cây cầu này, đúng ngày này 29 tháng Tư…"
Không ai bảo ai, chiếc xe dừng lại. Chúng tôi lặng lẽ bước xuống, cúi đầu, dành một phút mặc niệm bạn và những người đồng đội. Cây cầu Bình Phước 1 đã trải qua bao tháng năm thăng trầm, chứng kiến biết bao biến cố. Ngày ấy, nơi đây từng rung chuyển trong tiếng súng, tiếng bom. Hôm nay, giữa dòng xe cộ hối hả, quá khứ vẫn hiện về mồn một qua lời kể nghẹn ngào của Vinh và Thoan…
Xe tiếp tục lăn bánh. Đến ngã tư An Sương, chúng tôi rẽ phải vào Quốc lộ 22A. Không mất nhiều thời gian, một khu nghĩa trang hiện ra trước mắt với hai hàng chữ lớn nổi bật: “MẢNH ĐẤT NHỎ 18 THÔN VƯỜN TRẦU BẤT DIỆT/ NGHĨA TRANG LIỆT SĨ TÂN XUÂN"
Nghĩa trang liệt sĩ Tân Xuân còn khiêm tốn lắm, có khoảng 500 ngôi mộ, xây dựng từ năm 1982 rồi tu bổ lại, như người quản trang kể lại. Những tấm bia ốp đá hoa cương xếp ngay ngắn, trang nghiêm. Theo lời vị quản trang, nơi đây có tới 182 ngôi mộ chưa xác định danh tính, và phần lớn các liệt sĩ nằm đây không phải là người gốc Sài Gòn…

Từ phải sang: ông Hoàng Trọng Thoan, Nguyễn Quang Vinh, cháu liệt sĩ Ngô Sĩ Nguyên - Ảnh Đ.S.Q
Từ năm 2015, Vinh đã một mình vào Nam tìm mộ người đồng đội năm xưa. Sau bao ngày lần mò tìm kiếm, anh mới hay Nguyên đang yên nghỉ tại đây. Nhưng điều kỳ lạ là, trên bia mộ lại khắc tên Ngô Sĩ Nguyên, trong khi tên thật của bạn anh là Hồ Sĩ Nguyên. Không chút do dự, Vinh tức tốc trở ra Bắc, liên hệ với Sở Lao động - Thương binh & Xã hội tỉnh Nghệ An, nhờ họ phối hợp với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh để xác minh danh tính liệt sĩ. Sau những thủ tục đối chiếu hồ sơ, kết luận cuối cùng cũng sáng tỏ: Ngô Sĩ Nguyên trên bia mộ chính là Hồ Sĩ Nguyên.
Bốn mươi năm sau ngày giải phóng, mộ của người đồng đội thân thương mới được tìm thấy! Niềm vui vỡ òa nhưng cũng trĩu nặng những cảm xúc khó gọi tên. Người còn sống, người đã khuất, những năm tháng đạn bom tưởng đã xa, bỗng chốc lại ùa về, quặn thắt trong lòng những người lính năm xưa...
Mộ liệt sĩ Hồ Sĩ Nguyên nằm lặng lẽ ở hàng thứ hai, tính từ trong cùng trở ra, giữa nghĩa trang nhuốm màu thời gian. Hồ Sĩ Nguyên, người con của xã Diễn Hải, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, không chỉ là đồng chí mà còn là người bạn thân thiết của Nguyễn Quang Vinh và Hoàng Trọng Thoan. Cả ba đã cùng nhau chia sẻ những khoảnh khắc hào hùng và bi tráng trong chiến dịch cuối cùng, mở đường cho quân ta tiến vào giải phóng Sài Gòn. Suốt mấy chục năm qua, Vinh và Thoan luôn đau đáu một nỗi niềm - tìm lại nơi an nghỉ của bạn mình. Và giờ đây, đứng trước mộ Nguyên, họ mới có cơ hội hiểu thêm về người đồng đội đã hy sinh tuổi trẻ cho Tổ quốc.
Bên nấm mộ, Vinh và Thoan không kìm được xúc động, nước mắt lăn dài trên gương mặt khắc sâu những năm tháng trận mạc. Thoan nghẹn ngào, hồi tưởng lại khoảnh khắc thiêng liêng: chính Thoan, với tư cách đại diện Chi bộ, đã công bố Quyết định kết nạp Đảng viên mới Đảng Cộng sản Việt Nam cho Hồ Sĩ Nguyên vào ngày 29 tháng Tư năm 1975 - chỉ một ngày trước khi miền Nam hoàn toàn giải phóng. Vinh nấc lên, giọng lạc đi trong những tiếng gọi tha thiết: “Ơi Nguyên ơi! Tao và Thoan vào thăm mày đây này, có cả các anh em nữa! Sao mày ra đi sớm thế hả? Chỉ còn một ngày nữa thôi là đất nước hòa bình…"
Họ gọi Nguyên là “Chiến sĩ đặc công bất tử", người đã hiên ngang phất cao lá cờ giữa lửa đạn, dẫn đường cho đoàn quân tiến về Sài Gòn. Giữa không khí nghiêm trang, không gian dường như lắng đọng, mọi người lặng lẽ lắng nghe câu chuyện về người anh hùng, như thể thời gian lùi lại, tái hiện hình ảnh Nguyên cùng đồng đội xông pha giữa mưa bom bão đạn, để rồi vĩnh viễn nằm lại mảnh đất yêu quý này, trong lòng đất mẹ bao dung…
***
Vinh, Thoan và Nguyên lặng lẽ thu dọn quân tư trang, xếp lại từng món đồ vào chiếc “bồng" đã sờn cũ. Suốt mấy đêm liền mất ngủ vì những cuộc họp bàn phương án tác chiến, ánh mắt họ trũng sâu, mệt mỏi hằn lên từng đường nét trên khuôn mặt. Trên bầu trời, máy bay địch vẫn lượn vòng trinh sát, những tiếng động cơ gầm rú như muốn xé toang không gian.
Dưới mặt đất, những người lính đặc công vẫn kiên trì ẩn mình giữa sình lầy, nấp dưới lớp cỏ dại lúp xúp. Chỉ cần vài cành trâm bầu, họ có thể dựng lên một mái che đơn sơ từ chiếc tăng mỏng. Khi tiếng súng tạm ngưng, nằm trên võng giữa đêm khuya, ai nấy đều thả mình theo dòng suy nghĩ, vừa mơ về ngày toàn thắng, vừa canh cánh những nhiệm vụ phía trước.
Lương thực ít ỏi, có lúc phải tự tìm kiếm trong những ngôi làng gần đó. Những trận mưa pháo từ các cứ điểm Đồng Dù, Tân Quy, Bến Cát nã xuống như cơm bữa, rung chuyển cả một vùng trời. Vậy mà trong khoảnh khắc ngắn ngủi giữa những loạt đạn ấy, Nguyên bỗng cất lên giọng hát trầm ấm, ngân vang giữa đêm tối: “Sài Gòn ơi! Ta đã về đây, ta đã về đây… Lướt qua nắng mưa, súng bom nhịp chân đi…" của nhạc sĩ Huỳnh Minh Siêng, tức là Lưu Hữu Phước.
Vinh bật cười, bắt chước giọng xứ Nghệ đặc sệt:
- Chu cha, đêm qua thức trắng điều nghiên, giờ mi còn nghêu ngao chi rứa, muốn ăn pháo địch à?
Nguyên cười khẽ, giọng vẫn tràn đầy nhiệt huyết:
- Hát để át tiếng bom! Cứ nhởn đi!
Nhưng Thoan không cười, nét mặt anh đanh lại sau khi trở về từ cuộc họp tại Chi bộ. Giọng anh dứt khoát, đầy trọng trách:
- Đây là trận đánh cuối cùng! Có thích đánh nữa cũng chả còn đâu! Nhiệm vụ của đặc công chúng ta là chiếm và giữ cầu Bình Phước, đảm bảo quân giải phóng tiến vào Sài Gòn an toàn!
Không gian chợt lặng đi. Trong đầu mỗi người hiện lên hình ảnh cây cầu trọng yếu, nơi sẽ đánh dấu một cột mốc lịch sử. Vinh chợt nhớ đến lời Chính trị viên, kiêm Bí thư Chi bộ Nguyễn Ngọc Dậu: “Đảng viên phải là những người tiên phong trong chiến đấu… Không để địch phá hủy cầu!".
Thoan quay sang Nguyên, ánh mắt nghiêm nghị nhưng cũng xen lẫn niềm tin tưởng:
- Cậu là đối tượng cảm tình Đảng đặc biệt, nhiệm vụ của cậu là cắm lá cờ chiến thắng của ta trên cầu Bình Phước, nhằm báo hiệu xe tăng ta tiến vào Sài Gòn. Đây là thử thách cuối cùng đấy, để cậu chính thức được kết nạp vào hàng ngũ của Đảng!
Dưới bầu trời đêm sâu thẳm 28 tháng Tư, khi vạn vật đang chìm trong giấc ngủ, những người lính đặc công lặng lẽ trườn qua những con rạch, bãi sình lầy, quân tư trang nặng trĩu bùn đất. Họ đã chờ đợi khoảnh khắc này suốt nhiều ngày, dầm mình trong nước lạnh, ẩn nấp dưới những lùm dừa nước, chịu đói khát và muỗi dĩn hành hạ, nhưng không ai nao núng. Họ hiểu rõ rằng, trận đánh phía trước có thể định đoạt vận mệnh của Sài Gòn.
Khi “đánh hơi" thấy quân giải phóng tiến vào Sài Gòn, địch đã phong tỏa khu vực cầu hết sức nghiêm ngặt. Từ lúc nhận tin quân ta phá vỡ tuyến phòng thủ Xuân Lộc, sắp vượt cầu Ghềnh và cầu Đồng Nai, địch lập tức tăng cường lực lượng, bố trí thêm xe tăng, lô cốt, ụ súng đại liên dày đặc. Mọi con đường tiếp cận đều bị kiểm soát gắt gao. Trên các chốt gác, lính địch căng mắt quan sát, sẵn sàng nổ súng bất cứ lúc nào. Không một cành cây lay động, không một tiếng chân bước có thể thoát khỏi sự cảnh giác của chúng.
Vinh ghé sát Nguyên, thì thầm:
- Trận này sẽ quyết định tất cả. Sài Gòn nhất định phải được giải phóng. Cậu có lo lắng không?
Nguyên khẽ lắc đầu, giọng chắc nịch:
- Không! Tôi thấy vinh dự vì được có mặt ở đây.
Những tháng ngày gian khổ đã tôi luyện họ thành những chiến binh thép. Nguyên nhìn về phía trước, nơi ánh đèn vàng vọt hắt ra từ các vọng gác. Anh mím môi, khẽ nói với Vinh:
- Tôi đang tưởng tượng lá cờ giải phóng tung bay trên cầu Bình Phước...
Bóng đêm bao phủ trùm lên các mũi đặc công ta khi tiếp cận mục tiêu. Tất cả nín thở, lặng như những chiếc bóng. Quân ta bí mật vào vị trí, chờ thời khắc hành động... nhưng không thể. Địch vẫn bố phòng dày đặc, tuần tra nghiêm ngặt, trong khi đặc công nước chưa gỡ được mìn của địch. Lệnh rút quân được ban ra, chờ đến đêm 29 tiếp tục trận đánh.
Vinh, Nguyên, Thoan thắt lòng khi chưa thể khai hỏa. Họ cùng đồng đội tiếp tục ẩn mình trong đói khát, hứng chịu những trận pháo kích từ xa. May mắn thay, vị trí ém quân sát mục tiêu nhưng vẫn nằm ngoài tầm pháo địch. Quân ta kiên nhẫn chờ đợi, sẵn sàng lao vào trận chiến quyết định.
Đêm 29, rạng sáng 30 tháng Tư năm 1975, bóng tối như tấm màn che phủ dòng sông, chỉ còn những ánh chớp lập lòe do hỏa lực địch từ xa bắn vu vơ. Đặc công hai đầu cầu bí mật áp sát chân cầu Bình Phước, từng bước len lỏi tiếp cận mục tiêu bằng những yếu lĩnh động tác kỹ thuật tinh nhuệ bậc nhất, mang theo quyết tâm sắt đá: phải chiếm giữ được cây cầu này!
Đúng giờ G hiệp đồng, tiếng mìn ĐH 10 làm hiệu lệnh vang lên như sấm rền, xé tan màn đêm dày đặc. Nhanh như cắt, từ hai phía đầu cầu, quân ta đồng loạt nổ súng. Do hiệp đồng chặt chẽ nên không thể để đồng đội bắn vào nhau, dù phương án tác chiến chỉ ra cách đánh lúc này nhất thiết phải diễn ra hai đầu cầu để đảm bảo chắc chắn chiếm giữ mục tiêu địch. Bộc phá, B40 khai hỏa dữ dội, nhắm thẳng vào xe tăng, lô cốt, bốt gác, lực lượng phòng vệ của địch. Mặt đất rung chuyển dữ dội theo từng đợt nổ, khói lửa mù mịt, không khí đặc quánh bởi tiếng hô xung phong, tiếng la hét, tiếng kim loại va chạm nhau chát chúa. Đạn xé gió rít liên hồi bên tai, chiu chíu, xèn xẹt, lửa mịt mùng rực cháy cả một vầng trời như muốn nhấn chìm tất cả.
Quân giải phóng hy sinh không ít, nhưng không ai được phép lùi bước trong thời khắc lịch sử này. Thời gian như ngưng đọng ngừng trôi, rồi lại bị kéo dài vô tận trong màn mưa đạn dày đặc. Sau phút bất ngờ, hoảng loạn, địch xác định được hướng tiến công của ta, chúng điên cuồng phản kích, dốc mọi loại hoả lực bắn chặn và gào gọi chi viện. Trong cơn hỗn chiến ấy, Nguyên siết chặt cán cờ, lá cờ ấp vào ngực anh, sẵn sàng chớp thời cơ, khi được lệnh, anh lao nhanh ra khỏi đội hình, phóng lên mặt cầu, cắm vững chắc vào vị trí xác định.
Dưới dòng nước cuộn xiết, các chiến sĩ đặc công nước của ta đã kịp tháo gỡ những quả mìn tự hủy của địch. Cuộc đối chiến hết sức cam go, trên mặt đất tiếp tục rung chuyển dữ dội. Các mũi tiến công sắc bén của ta dần chiếm ưu thế, áp sát đầu cầu và trụ vững. Địch ngoan cố bám trụ, ta tập trung hoả lực vào từng mục tiêu trọng yếu, phá thế của địch. Cuộc giằng co càng diễn ra ác liệt hơn trong màn đêm mịt mờ. Chỉ thị cấp trên vang lên dứt khoát: “Bằng mọi giá, phải chiếm giữ được cầu!".
Phải đến ba giờ sáng, quân ta mới ở thế áp đảo địch, nhưng cây cầu vẫn chưa hoàn toàn nằm trong tay những người chiến sĩ giải phóng. Khi lệnh tổng tấn công vang lên lần nữa, toàn bộ lực lượng đặc công nhất tề tiến lên quyết chiếm giữ cầu. Thời cơ chín muồi và được lệnh, Nguyên như mũi tên xé gió lao lên mặt cầu với thiết diện mỏng và nhanh nhất có thể để tránh những làn đạn bắn thẳng quét ngang của địch, tay siết chặt cán cờ, mắt anh ánh lên ý chí sắt đá. Với tất cả sức mạnh, anh giương cao lá cờ giải phóng rồi phất mạnh, tiếng hô vang vọng trong tiếng đạn rền trời: “Chiếm được cầu rồi!".
Pháo địch gầm rú dữ dội, bộ binh địch cố tràn lên nhưng không thể xuyên thủng đội hình ta. Trên mặt cầu, giữa khói lửa mịt mù, Hồ Sĩ Nguyên vẫn kiên cường hô vang: “Chiếm được cầu rồi!".
Lá cờ giải phóng phần phật tung bay trong gió, chứng nhân cho chiến thắng đã đến. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi, một loạt đạn bắn thẳng oan nghiệt từ phía địch xé toạc màn sương, xuyên thẳng vào ngực, vào cơ thể Nguyên. Anh gục xuống, tay vẫn giữ chặt cán cờ, đứng thẳng. Đôi mắt Nguyên dần khép lại trong tư thế uy nghi của một đoàn viên ưu tú cảm tình đặc biệt của Đảng, người chiến sĩ giải phóng quân đi vào bất tử.
Giữa cơn mưa bom bão đạn, Hoàng Trọng Thoan đứng thẳng, giọng dõng dạc, kiên định: “Tôi, Hoàng Trọng Thoan, Chi ủy viên Chi bộ C59, thay mặt Chi bộ, trân trọng tuyên bố kết nạp đồng chí Hồ Sĩ Nguyên vào Đảng Cộng sản Việt Nam từ ngày hôm nay, 30 tháng Tư năm 1975!".
Từng đợt quân giải phóng và xe tăng từ hướng Tây Bắc ồ ạt tiến qua cầu. Đến sáng ngày 30 tháng Tư, quân ta hoàn toàn làm chủ cầu Bình Phước, mở đường cho đại quân thần tốc tiến vào nội đô. 11 giờ 30 phút, lá cờ chiến thắng tung bay trên nóc dinh Độc Lập, khép lại trang sử đau thương, mở ra kỷ nguyên toàn thắng của dân tộc.
Nguyên đã hóa thân vào lòng đất mẹ, nhưng bước chân đồng đội anh vẫn tiến lên, tiếp tục viết tiếp bản hùng ca chiến thắng.
*
Vượt qua hơn ngàn cây số, những cựu chiến binh đi tìm đồng đội năm xưa - đã đến nơi yên nghỉ vĩnh hằng của họ. Trước những nấm mồ trầm mặc giữa đất trời, họ quặn lòng trong nỗi đau khôn tả, nước mắt lặng lẽ rơi trên những bia mộ rêu phong. Không ai muốn rời đi. Bởi với họ, đây không chỉ là một sự mất mát - mà là khoảng trống không gì bù đắp nổi trong cuộc đời. Hồ Sĩ Nguyên, người anh hùng đã nằm lại trên mảnh đất “Mười tám thôn vườn trầu," đã đi qua 50 mùa xuân trong lòng đất mẹ. Nơi đây, cấp uỷ, chính quyền, nhân dân Hóc Môn Thành phố Hồ Chí Minh đã chăm lo, quy tập, và xây dựng mộ phần cho những người con trung kiên đã ngã xuống vì độc lập tự do cho Tổ quốc.
Vinh và Thoan lặng lẽ, không ai cần thốt ra điều gì lúc này, nhưng họ đều chung một ý nghĩ. Họ quyết định, một ngày không xa, sẽ cùng gia đình Nguyên từ Nghệ An vào Nam, đưa anh về quê để tiện bề hương khói, để đất mẹ vỗ về giấc ngủ ngàn thu. Ông Hoàng Trọng Thoan nghẹn ngào kể lại: ngày ấy, khi cấp trên hỏi ai xung phong cắm cờ, những cánh tay rắn rỏi đều đồng loạt giơ lên. Nhưng cuối cùng, Chi bộ tin tưởng giao trọng trách thiêng liêng ấy cho Hồ Sĩ Nguyên. Và rồi, anh đã mãi mãi nằm lại ngay thời khắc lịch sử chiến thắng 30/4, giải phóng hoàn toàn miền Nam, non sông thu về một mối, đất nước hoà bình, thống nhất.
Hai người phụ nữ, vợ của hai cựu chiến binh đứng lặng trước mộ bạn của chồng. Đôi bàn tay run run đưa những nén nhang lên cao, nước mắt giàn giụa hòa vào làn khói trắng mong manh. Xót xa… Thương nhớ…
Cầu Bình Phước vẫn ngày ngày gồng mình cõng những dòng người và xe cộ ngược xuôi, hối hả. Nhưng mấy ai biết rằng, mùa Xuân năm ấy, ngay tại nơi này, một chiến sĩ đặc công - chàng trai sinh ra từ đất Nghệ, quê hương của Bác Hồ - đã anh dũng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng và ngã xuống để đại quân ta tiến bước, giải phóng miền Nam!
Đất nước đang từng ngày đổi mới, đạt được những thành tựu tích cực trong việc duy trì ổn định chính trị và phát triển kinh tế, củng cố an ninh - quốc phòng. Những con đường mở rộng, những khu đô thị mọc lên, những cánh đồng bạt ngàn mùa màng tốt tươi, tất cả vẽ nên một bức tranh tươi sáng về một Việt Nam đang vươn lên mạnh mẽ.
Chiếc xe ô tô chầm chậm lăn bánh, như mang theo những ký ức một thời oanh liệt, nhưng cũng mở ra một hành trình mới của sự hòa hợp và phát triển. Tiếng động cơ đều đặn hòa lẫn trong không gian yên bình, tựa như nhịp chảy trầm lặng của thời gian, đưa quá khứ dần lùi xa nhưng không bao giờ phai nhạt. Trong khoang xe, ánh mắt mọi người đỏ hoe, không chỉ vì nỗi đau và sự tiếc thương, mà còn bởi niềm tự hào sâu sắc về một người đồng đội đã hy sinh trọn vẹn cho Tổ quốc. Những nếp nhăn hằn sâu trên gương mặt người lính già, bàn tay siết chặt kỷ vật của người bạn năm xưa, cả những giọt nước mắt lặng lẽ lăn dài - tất cả nói lên những ký ức chưa bao giờ nguôi ngoai.
Trên mảnh đất hòa bình hôm nay, những người từng ở phía bên kia chiến tuyến, nhận thấy rõ những lầm lạc, chung tay dựng xây quê hương, khép lại quá khứ đau thương, những bi kịch do chủ nghĩa đế quốc tạo nên mà đôi khi bản thân họ không thể nhận thức được, cùng làm lại cuộc đời, hướng về tương lai tươi sáng. Những cây cầu nối liền bờ sông, những con đường trải dài về những vùng quê xa xôi, như minh chứng cho sự đổi thay. Người lính ngày nào nay trở thành những người cha, người ông, truyền lại cho thế hệ trẻ bài học về lòng yêu nước, về sự hy sinh cao cả. Trong từng lớp học, từng nhà máy, từng cánh đồng, những đôi tay mạnh mẽ tiếp nối hành trình xây dựng đất nước, nơi tình người và lòng yêu nước hòa quyện thành một, tạo nên sức mạnh để vững bước tiến về phía trước.
Đ.S.Q
Nguồn: Văn nghệ Đồng Nai số 86 (Tháng 4 năm 2025