Tôi chỉ đọc được một ít truyện ngắn của tác giả Ngô Hường nên bước đầu ghi lại đây một vài đường nét của một khuôn mặt dịu dàng ấm áp thân quen của văn chương Đồng Nai. Chân dung ấy chưa đủ gân guốc, góc cạnh có thể gây ấn tượng cho người đọc song vẻ dịu dàng ấm áp của trang văn Ngô Hường có thể để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc thẩm mỹ.
Đa sắc màu thẩm mỹ
Xin hãy theo chân tác giả trên Chiếc xuồng đêm.
Giáng Vân thuê thuyền đi dã ngoại một mình. Cô chạy một mạch từ Sài Gòn xuống sông Lòng Tàu. Trước đây Vân đã nhiều lần đi dã ngoại với Phong, người yêu cô. “Phong thuê hẳn một chiếc ghe lớn chở cả đám bạn và Giáng Vân theo con sông Lòng Tàu ra tận Cần Giờ, ăn chơi mấy ngày trên sông nước". Những dòng mở đầu truyện gợi ra trong tôi hình ảnh cô gái trẻ thích du lịch hoặc phiêu lưu mạo hiểm. Người trẻ hôm nay là vậy. Để xem cô ta “quậy" thế nào.
Nhưng khi tác giả cho biết cô trốn chạy vì bị đánh ghen, chạy để lánh nạn, tôi lại nghĩ khác. Mới sáng nay,“có người đến tận công ty cô xưng là vợ của Phong, bảo cô là kẻ giật chồng rồi đưa cô xem những video quay cảnh đầm ấm của gia đình họ", cô “chỉ biết đứng đực ra như trời trồng mặc cho những cơn cuồng nộ của đám đàn bà đánh ghen dội xuống đầu". Trong tôi, mọi thiện cảm dành cho cô tụt xuống độ âm. Nhưng bình tâm, trong tôi cũng vẫn còn một chút ngậm ngùi thương cảm. Tôi chìm vào một câu hỏi lớn (“Cổ kim hận sự thiên nan vấn" - Nguyễn Du). Thân phận phụ nữ từ xưa đến nay đều lụy vì tình sao? Người phụ nữ khổ chỉ vì đàn ông thôi sao, Giáng Vân là cô gái của toàn cầu hóa rồi sao vẫn khổ?
Nhưng hãy tạm để nỗi thất vọng ấy lắng xuống, hãy tiếp tục theo chân Giáng Vân. Trời chiều tối, Giáng Vân tìm mãi không thấy lối ra. Cô bị lạc trong rừng, càng đi càng hun hút. Rồi trời đổ mưa, cô tìm một gốc đước sum suê để trú. Vì lạnh, vì mệt, vì đói, cô gục xuống… Hẳn bạn đọc đều thương cảm và lo lắng cho tính mạng của Giáng Vân. Thân gái một mình giữa rừng đêm mưa, bao nhiêu nguy hiểm rình rập. Sao Giáng Vân lại để mình lâm vào hoàn cảnh này? Một cô gái lanh lợi, năng động và thừa thông minh, lại có Google Maps chỉ dẫn, sao lại lạc đường trong rừng? Kể cả việc cô có thể dùng điện thoại gọi cho bạn trợ giúp, vậy mà giờ đây, cô gục ngã giữa rừng đêm. Truyện trở nên hết sức hấp dẫn.
Lúc ấy Giáng Vân được một ông già cứu giúp. Ông đưa cô về lều. Nhà có hai vợ chồng già, các con trai đi vắng. Bà lão vợ ông nấu cháo sò huyết cho cô ăn và trú qua đêm. Giáng Vân mệt và ngủ thiếp đi… Đến đây, người đọc mừng cho cô. Hy vọng cô bình an. Hóa ra trong cuộc sống vẫn còn người tốt, lúc tuyệt vọng nhất lại xuất hiện sự may mắn. Người có đức tin thì tin chắc rằng cô được Phật Quan Âm độ mạng. Phước lớn lắm mới được như vậy.
Nửa đêm, Giáng Vân hé mắt thấy ông già nói chuyện với nhiều người. Chắc là con ông. Họ nói, mai có hàng về, rồi chỉ Giáng Vân hỏi, người kia có tin được không. Ông già khẳng định. Lúc ấy, Giáng Vân nghĩ mình lọt vào tay bọn buôn lậu rồi! Cô hoảng hốt và mong tìm thấy biên phòng để trình báo. Và nếu không cẩn thận, cô sẽ bị nguy hiểm. Truyện lại mở ra một hành trình mạo hiểm khác của Giáng Vân: hành trình thoát thân đi tìm biên phòng. Người đọc lại lo cho tính mạng của cô, nhưng vẫn còn hy vọng, bởi ông bà già có vẻ nhân hậu.
Gần sáng, đám người nói chuyện với ông già mới chịu rút đi. Bà lão lục đục dậy nấu cơm. Giáng Vân vội vã chào bà lão rồi phóng xuồng trở ra. Cô lại loay hoay tìm đường. Mặt trời lên cao rồi cô vẫn chưa ra được sông lớn. Mãi sau, cô gặp được chiếc thuyền lớn, trên thuyền có người nói: “Cháu lên đây, các cô chú sẽ đưa cháu đi chơi khắp cái Rừng Sác này". Thuyền đến đúng gốc cây đước Giáng Vân trú mưa đêm qua, nhưng giờ này không có chòi nào cả. Người đàn ông mặc quân phục trên thuyền kể chuyện bác Hai ngày xưa hy sinh tại nơi này. Giáng Vân “đứng há hốc mồm ra nhìn cái am mà lạnh xương sống. Có lẽ nào… cô thấy bủn rủn hết chân tay". Người đọc cũng lạnh sống lưng như cô. Hóa ra đêm qua cô được vợ chồng bác Hai (người âm) cứu giúp. Nói theo ngôn ngữ dân gian, đêm qua cô đã gặp “ma", rất nhiều “ma" nhưng là “ma hiền". Cảm giác “sợ ma" bao trùm.
Khi nghe người chỉ huy trên thuyền kể về gương hy sinh dũng cảm của bác Hai, cảm xúc của người đọc lại chuyển biến khác: “Đây là nơi thờ vợ chồng bác Hai, người đã có công lớn trong việc nuôi quân những ngày kháng chiến gian khổ. Vợ chồng bác vừa phải mò cua bắt ốc, chặt lá dừa nước đem lên chợ bán để nuôi anh em vừa làm nhiệm vụ thám báo. Một lần, trong lúc đang đi mò cua thì bị giặc bắn chết tại đây, dưới gốc cây mắm già này". Hóa ra “ma" ở đây là các anh hùng liệt sĩ Rừng Sác, năm xưa đã sống nghĩa tình, đã chiến đấu và hy sinh. Đã có sự hiển linh rất cụ thể và sống động, đã có một mối giao cảm rất truyền thống giữa thế hệ cha anh và con cháu hôm nay. Hẳn trong lòng người đọc dâng lên một tình cảm yêu thương, cảm phục và biết ơn cha ông xưa qua hình ảnh vợ chồng bác Hai.
Cảm được những ân tình sâu nặng của vợ chồng bác Hai với mình, Giáng Vân thắp nhang cho bác Hai và khấn: “Nhất định con sẽ quay trở lại nơi đây với một tâm thế khác, không phải là một kẻ trốn chạy cuộc đời". Cuộc gặp gỡ của Giáng Vân với vợ chồng bác Hai đã làm Giáng Vân thay đổi thái độ sống. Cô lấy lại được sức sống, niềm tin. Và cô hành động:
“Giáng Vân bước lên ghe mà lòng dạ thanh thản hẳn. Cô thò tay vào giỏ lấy điện thoại, không ngần ngừ, tìm số của Phong rồi chạm vào nút “delete". Cô cần phải thay đổi, Phong đâu đáng để cô còn phải lưu tâm". Người đọc được dẫn trở lại chuyện tình của Giáng Vân. Cô dứt khóat từ bỏ sự lầm lỡ của mình. Gương hy sinh của vợ chồng bác Hai nhắc nhở cô phải sống đúng, sống làm người có ích cho quê hương, sống mạnh mẽ đối mặt với mọi thử thách và sống nghĩa tình của truyền thống dân tộc Việt. Cô từ bỏ một tình yêu dối lừa dù rất khó khăn nhưng người đọc sẽ nâng đỡ và chia sẻ với cô.
Truyện kết lại rất nhiều màu sắc thẩm mỹ và tư tưởng trong lòng người đọc. Vấn đề tình yêu và thân phận phụ nữ vẫn còn đó tiếng kêu của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Vấn đề về các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh âm thầm, con người hôm nay phải sống thế nào cho xứng với sự hy sinh của cha ông hôm qua? Sao lại để chỗ an nghỉ ngàn thu của vợ chồng bác Hai chỉ là một cái am nhỏ khuất giữa rừng? Và đối với người Việt, chuyện tâm linh là thật, là thiêng liêng, là hiển linh ngay trong đời thường. Hình ảnh cha ông cùng với gương hy sinh dũng cảm vì nước vì dân là cội nguồn sức mạnh của dân tộc này, là chân lý ngàn đời của dân tộc, điều ấy con dân Việt không ai được quên.
Truyện pha trộn rất tự nhiên màu sắc truyện phiêu lưu mạo hiểm với chuyện tình, chuyện lịch sử, chuyện tâm linh và chuyện thời sự đương đại. Trên tất cả là sự tỏa sáng tấm lòng với anh hùng liệt sĩ, tấm lòng với thân phận phụ nữ và sự thể hiện một thái độ sống nghĩa tình đúng mực của người Việt hôm nay. Chiếc xuồng đêm là một truyện ngắn đa sắc màu nghệ thuật và tư tưởng của Ngô Hường, đủ khẳng định một tài năng văn xuôi của văn học Đồng Nai.
Đất nước và con người Đồng Nai
Đọc truyện ngắn của Ngô Hường, tôi tự hỏi, điều gì trong trang văn của chị đem đến sự ấm áp, gần gũi và tin yêu trong lòng người đọc? Hỏi trang văn nhưng cũng là tự hỏi lòng mình, văn chương Ngô Hường đóng góp gì vào văn học Đồng Nai?
Câu trả lời nằm trong truyện Neo một bến sông, Hương quê; trong những bút ký: Hào quang và những trăn trở, Từ bức chân dung một vĩ nhân. Xin đọc:
Neo một bến sông kể chuyện vợ chồng Năm Sang - Kiều Mai. Họ rời vùng kinh tế mới và đưa các con về thành. Tay không, các con đói nheo nhóc, họ không biết về đâu. Xe dừng lại, họ xuống chỗ Vườn Mít. Lũ con đói khát, Năm Sang sốt rét. Trong tình cảnh cùng cực ấy, họ được bà Ba Hiên, người bán hủ tiếu, cho ăn uống không lấy tiền. Kiều Mai nghĩ, cô phải làm việc gì đó phụ bà để trả ơn cho bà. Bà Ba Hiên nhớ lại, ngày đầu đến Biên Hoà, bà cũng vạ vật đầu đường xó chợ. May mà bà được người cha nuôi đem về, cưu mang và truyền cho nghề nấu hủ tiếu gia truyền của ông. Nghĩ vậy, bà đã dẫn vợ chồng Năm Sang - Kiều Mai tìm chỗ tạm trú rồi hướng dẫn việc làm ăn kiếm sống. Kiều Mai theo bà buôn bán, còn Năm Sang quanh quẩn ở chợ Biên Hòa kiếm việc. Một ngày kia, Kiều Mai được một ông già bí ẩn chỉ bảo các dùng nước giếng bí mật gần bờ sông để nấu ăn. Món ăn của Kiều Mai trở nên ngon nổi tiếng. Cuộc sống của Kiều Mai khấm khá dần. Hai vợ chồng mua lại đất của bà Ba Hiên rồi mở quán ăn. Đêm đêm vợ chồng ngồi đếm tiền. Năm Sang mơ mình có một quán lẩu tôm Năm Kiều, “Mai sau, các con, các cháu của anh sẽ tiếp nối và làm rạng danh thương hiệu lẩu tôm thơm ngon nấu từ nguồn nước giếng cổ trứ danh này".
Hương quê kể chuyện Tư Hiếu, chủ tịch xã, muốn thay đổi cây trồng tại xã của anh. Anh vận động ông Sáu Khang, cha anh, 70 tuổi, phá vườn cây truyền thống của ông để trồng cây chôm chôm theo tiêu chuẩn Viet GAP, nhưng cha anh không chịu. Tư Hiếu nhờ chị Ba Hiền thuyết phục cha. Ba Hiền là người lấy chồng Tây ở Pháp về. Ba Hiền nói chuyện cả buổi với ông, nhưng ông Sáu Khang vẫn quyết liệt từ chối. Sau ông nghĩ lại, nghĩ lời khuyên của con gái, nghĩ đến trách nhiệm làm gương của cán bộ Tư Hiếu con ông, ông đã đồng ý. Trước khi bàn giao khu vườn lại cho Tư Hiếu để đi Pháp chơi với con gái, ông rất lưu luyến vườn cây bao đời nay, khu vườn cho trái ngọt bốn mùa mỗi khi con cháu tụ về. Đây là tâm trạng của Ba Hiền: “Nhìn cảnh bịn rịn của ba, cô cũng thấy sụt sùi. Nhưng biết làm sao được, muốn thắng lợi thì phải hi sinh, muốn thành công thì phải bắt tay vào làm. Mai mốt trái cây quê cô sẽ có mặt trên khắp thế giới. Ở tận bên Pháp, cô sẽ tự hào cầm trái xoài cát Hòa Lộc trên tay mà khoe với bạn bè khắp năm châu rằng: “Nhìn xem, đây là trái cây quê tôi đó!".
Đọc hai truyện Neo một bến sông và Hương quê, tôi thấy lòng mình ấm áp chi lạ. Truyện khắc họa được hình ảnh con người Đồng Nai nhân hậu, nghĩa tình, sẵn sàng cưu mang nhau lúc hoạn nạn với một tình yêu thương con người sâu nặng, thủy chung (bà Ba Hiên nghĩa tình, vợ chồng Năm Sang - Kiều Mai thủy chung, cần cù làm lụng và giàu ước mơ). Ông Sáu Khang có tình yêu sâu đậm với quê hương mình. Tình cảm của ông dành cho vườn cây, cho bà con, cho con cháu tạo nên tư tưởng và sức hấp dẫn cho câu chuyện. Người Đồng Nai hôm nay không chỉ nghĩa tình mà còn biết vươn lên hội nhập toàn cầu hóa (bài ký Hào quang và những trăn trở viết về làng nghề gỗ mỹ nghệ ở Trảng Bom), và hơn nữa, con người Đồng Nai là con người tài hoa (Bài ký viết về họa sĩ Nguyễn Quốc Trọng, người say mê đề tài chân dung Bác Hồ).
Ngô Hường viết về miền quê, về người quê, về cuộc sống quê với ngòi bút sinh động, sắc sảo và ấm áp. Dường như cái chất quê, cái hồn quê, cái ngôn ngữ quê, cái giọng quê mới thực là cốt cách văn chương của chị. Chị viết rất tự nhiên, rất chân thực, rất say mê về con người và cuộc sống Đồng Nai, như thể đó chính là cuộc sống của mình, là tâm huyết, máu thịt của mình. Viết về đất nước, con người Đồng Nai, Ngô Hường có cái nhìn văn hóa đa tầng. Các thế hệ trước làm nền tảng cho thế hệ sau. Tầng nền tảng là những anh hùng liệt sĩ đã hy sinh (bác Hai trong Chiếc xuồng đêm), là ông già bí ẩn (địa linh nhân kiệt) trong Neo một bến sống, là những con người bám đất bám làng (ông Sáu Khang trong Hương quê, bà Ba Hiên). Thế hệ “đổi mới" của hôm nay là Tư Hiếu (Hương quê), là Giáng Vân (Chiếc xuồng đêm), Minh mập (Nhà sát vách), Năm Sang - Kiều Mai (Neo một bến sông) và những con người của làng nghề đồ gỗ mỹ nghệ ở Trảng Bom, là họa sĩ Nguyễn Quốc Trọng. Ngòi bút Ngô Hường cũng đau đáu vấn đề giáo dục trẻ con, thế hệ tương lai, truyện chị kể làm nặng lòng người đọc (Hạnh ngộ). Tất nhiên nhà văn cũng đặt lòng mình trăn trở với những vấn đề nóng của hôm nay (các truyện: Khi bóng xế chiều, Nhà sát vách, Chờ thời).
Đôi điều chia sẻ
Truyện ngắn Ngô Hường có đóng góp đặc sắc vào những trang văn viết về đất nước, con người Đồng Nai với những khám phá riêng và cốt cách riêng. Điều ấy làm nên giá trị ngòi bút văn chương của chị.
Có những truyện chị kết thúc khi người đọc còn muốn đọc tiếp, tôi gọi đó là cách kết lửng (trong âm nhạc có cách kết lửng, thơ Lục bát kết lửng ở câu 6 chữ). Có thể đó là một dụng ý nghệ thuật, chị muốn người đọc nghĩ tiếp về những gì chị đã khai mở; cũng có thể chị đã không thể viết một đoạn kết “có hậu" như đặc điểm cấu trúc truyện của chị, bởi hiện thực là như thế (các truyện: Khi bóng xế chiều, Hạnh ngộ, Chờ thời…). Dù sao, những truyện có cấu trúc “đầy đặn" như Chiếc xuồng đêm, Neo một bến sống chứa đựng được nhiều thông điệp tư tưởng - thẩm mỹ hơn.
Tuy viết chưa nhiều, song trong những truyện đã công bố, Ngô Hường đã chạm được vào những vấn đề lớn của cuộc sống hôm nay với một thái độ trách nhiệm tích cực. Tầm nhìn văn hóa và tấm lòng nhân hậu của chị đem vào những câu chuyện chị kể sự ấm áp tình người và một niềm tin yêu có chiều sâu. Chị đã góp phần làm nên những trang văn đẹp đẽ của Đồng Nai.
B.C.T
Nguồn: Văn nghệ Đồng Nai số 85 (Tháng 3 năm 2025)