
NỮ ĐẠO DIỄN - NHÀ VĂN XUÂN PHƯỢNG
Nữ đạo diễn, nhà văn Xuân Phượng (ĐD, NV) sinh ra trong gia đình hoàng tộc Huế. Năm 16 tuổi, bà rời gia đình đi vào cuộc “sinh tử" của chiến tranh. Chẳng những thế, cuộc sống khốc liệt ấy đã tạo nên “người đàn bà thép" trong làng hội họa Việt Nam, nữ nhà văn Việt Nam. Đó là những dấu ấn đậm nét, nỗ lực không mệt mỏi của hoạ sĩ, ĐD, NV Xuân Phượng. Trong đó, theo bà, không chỉ nghị lực phi thường của một cá nhân mà của một thế hệ những người vượt lên gian truân, khốc liệt chiến tranh, khát khao hòa bình, vì quê hương đất nước con người Việt Nam. Trong một lần hiếm hoi khi tuổi ngoài 90, nữ nhà văn chia sẻ với chúng tôi về chuyện đời, chuyện nghề nhiều tâm huyết.
CUỐN SÁCH ĐẦU TAY
Phóng viên: Thưa Đạo diễn, nhà văn Xuân Phượng, bà đang cầm bút ở tuổi ngoài 90, hẳn thật hạnh phúc xen lẫn vất vả. Bà vui lòng cho biết, điều gì thôi thúc bà viết hai tự truyện về đời mình trong những năm gần đây?
ĐD, NV Xuân Phượng: Đã mang lấy nghiệp cầm bút thì bất kỳ ở tuổi nào hạnh phúc và vất vả đều song song đi với nhau. Trước trang giấy trắng, muốn “cày" được những con chữ lên theo đúng ý mình thật là vô cùng gian lao và vất vả. Ý nghĩ dào dạt trong đầu, tưởng chừng chỉ cần ngồi và viết ra, nhưng thực tế không bao giờ là như thế. Người trẻ bút lực dồi dào, đầu óc minh mẫn mà phải trầy trật lắm mới viết được những dòng chữ đầu tiên, huống gì người già ngoài tuổi 90 như tôi.
Cũng như nhiều gia đình, hoàn cảnh của tôi là phải xa cha mẹ và anh chị em hơn 40 năm mới được gặp lại. Mà gặp lại trong hoàn cảnh tôi ở miền Bắc, toàn thể đại gia đình của tôi đều đang ở miền Nam. Muốn hiểu và gặp nhau sau gần nửa thế kỷ xa cách với hai chế độ chính trị khác nhau, tôi biết rằng khi mình viết lại đời mình trải qua bao nhiêu năm chiến tranh với những nỗi vui buồn khác nhau mới đem lại được sự cảm thông và thấu hiểu. Năm 2001, thể theo yêu cầu của một nhà xuất bản tại Pháp, tôi đã kể lại đời mình bằng một hồi ký mang tên: Áo dài, từ trường Bồ câu trắng đến Chiến khu Việt Minh. Nội dung sách này là bút ký, kể về đời tôi từ lúc rời ghế nhà trường năm 16 tuổi, để tham gia kháng chiến. Cho đến năm 1975, tôi trở về trong một nước Việt Nam thống nhất với vai trò là một phóng viên chiến trường. Hồi ký này, tôi viết bằng tiếng Pháp và kể lại đời mình với đối tượng là những người nước ngoài chưa có hiểu biết gì về phong tục, tập quán của Việt Nam ta.
Mười chín năm sau, trong dịp phải ngồi cô lập tại nhà do việc phải cách ly bởi dịch Covid – 19, tôi suy nghĩ, lần này viết hồi ký về đời mình cho chính đại gia đình Việt Nam của mình, cho giới trẻ Việt Nam chưa hề biết đến chiến tranh. Vì vậy, phần tâm sự cá nhân và những gian truân vất vả đã xảy ra được tôi dành nhiều tâm sức ghi lại chi tiết hơn. Đồng thời, nói về một số bạn bè trí thức đã sống và làm việc như thế nào trước thời cuộc của chiến tranh.
Tôi vô cùng hạnh phúc vì thấy mọi nhọc nhằn khi bản thân hoàn thành tác phẩm Gánh gánh... gồng gồng. Lại nhận được sự mến mộ, cảm thông và chia sẻ của hàng trăm ngàn bạn đọc đủ các lứa tuổi. Sách ấy hiện nay đã tái bản đến lần thứ 14, được Giải thưởng Văn học của Hội Nhà Văn TP. Hồ Chí Minh và Hội Nhà văn Việt Nam và năm 2020. Được sự tiếp sức vô cùng quý báu của bạn đọc, tôi tiếp tục viết về một giai đoạn quan trọng trong đời tôi: Giai đoạn về hưu, tôi vẫn tiếp tục đưa các họa sĩ và tác phẩm của họ ra nước ngoài và ở trong nước, để giới thiệu một phần nhỏ về nền mỹ thuật Việt Nam. Về hưu rồi mới càng ngấm câu nói: “Thương trường là chiến trường".
Kết quả là, nhiều nhà doanh nghiệp trẻ yêu thích tác phẩm này với những phần thành công của một người đàn bà sau tuổi hưu; đồng thời, cũng đọc được những thất bại đau đớn mà tôi gặp phải trong việc kinh doanh phòng tranh này.
Tôi đang ấp ủ một hồi ký khác kể về những năm làm phóng viên chiến trường, đã quay phim và ghi lại những thước phim chiến tranh ở Vĩnh Linh (1967), ở Lào (1968), ở Campuchia (1979)… Hy vọng, cuối năm 2025 sẽ ra mắt bạn đọc.
Phóng viên: Nói đến sưu tập, kinh doanh tranh, trong những bộ sưu tập tranh quý của mình, cô có thể chia sẻ câu chuyện ý nghĩa về lương duyên với bộ tranh chiến trường của họa sĩ Phạm Thanh Tâm và ý nghĩa của bộ tranh mà cô coi như báu vật?
ĐD, NV Xuân Phượng: Họa sĩ Phạm Thanh Tâm và tôi quen biết nhau từ hồi kháng chiến ở Việt Bắc, cùng ở trong một đơn vị pháo binh. Sau này, tôi trở thành phóng viên chiến trường, anh Tâm là họa sĩ chuyên ký họa tại chỗ mọi sinh hoạt của các mặt trận. Thường vũ khí của người họa sĩ chiến trường chỉ có cây bút, vài thỏi mực và phải đi bộ hoặc đi xe đạp để đến trận địa. Tôi ở đoàn làm phim nên được ưu tiên hơn là có xe cơ giới, phương tiện vận chuyển cũng thuận tiện hơn. Mỗi lần đi trận địa, để giảm bớt phần khó khăn, tôi thường mời anh Phạm Thanh Tâm đi cùng. Đến mỗi trận địa, anh Tâm hay vẽ chân dung các chiến sĩ cũng như sinh hoạt đời thường. Thường chỉ ngồi trong giây phút là máy bay ào đến thả bom. Họa sĩ và người mẫu phải chạy xuống hầm chờ tiếng máy bay địch dứt, mới tiếp tục vẽ. Tôi đã đếm có lần cô dân quân Vĩnh Linh và họa sĩ phải xuống hầm tám lần mới có thể hoàn thành một bức vẽ. Điều đặc biệt làm tôi ngưỡng mộ là nét bút của anh Tâm không hề run tay, đôi mắt nụ cười của cô du kích quả cảm vẫn ngời ngợi khí thế, một tâm trạng anh hùng của cả người mẫu và của cả họa sĩ làm tôi thấy quý giá vô cùng những bức vẽ điềm tĩnh, chững chạc, bình dị qua các trận mưa bom.
Năm 2019, trong một chuyến đi triển lãm tranh tại New York (Mĩ), tôi ngỏ ý định làm một cuộc triển lãm về người Phụ nữ Việt Nam trong thời chiến và trong thời bình qua nét vẽ của một họa sĩ quả cảm. Cùng với đó, triển lãm luôn hình ảnh những phụ nữ Việt Nam duyên dáng trong chiếc áo dài của thời bình. Ban tổ chức rất đồng ý về cuộc triển lãm này. Mọi việc đang tiến hành theo ý định kế hoạch thì rất tiếc, ông giám đốc Gallery từ trần. Công việc đành phải bỏ dở dang.
KHÔNG THỂ NÀO QUÊN
Phóng viên: Thưa ĐD, NV Xuân Phượng, cháu nghe nói bà từng suýt chết khi chui xuống địa đạo Vịnh Mốc làm phim trong giai đoạn chiến tranh khốc liệt... Theo bà, trải nghiệm sinh tử của người cầm bút có giá trị lớn lao thế nào đối với nhà văn và đối với độc giả?
ĐD, NV Xuân Phượng: Được trực tiếp tham gia vào việc quay phim các chiến trường khốc liệt, đã hai lần bị bom vùi, một lần bị thương ở mặt… nên những kinh nghiệm sống khốc liệt ấy đã cho tôi những cảm giác không thể nào quên khi nghĩ lại những sự kiện đã trải qua. Sau thời gian bị thương, sau cuộc sống trong hòa bình, những kinh nghiệm nóng bỏng ấy đã trở về trong tâm trí của tôi. Tôi đã viết về những kinh nghiệm chết chóc đã qua, cùng với thời gian, đã có thể điềm tĩnh nhớ lại từng chi tiết những hoàn cảnh trên. Có lẽ, kinh nghiệm sống thực tế ấy đã giúp những hồi tưởng trong bút ký của tôi thêm sự chân thật, làm xúc động bạn đọc.
Phóng viên: Sau 50 năm đất nước thống nhất, câu chuyện hoà giải ít nhiều vẫn còn nhiều tranh cãi, định kiến. Khi viết tác phẩm, bà có chú trọng đến điều này không?
ĐD, NV Xuân Phượng: Vấn đề hòa giải giữa hai miền Nam Bắc là một vấn đề cực kỳ tế nhị. Mẹ tôi đã từng hỏi tôi: “Con ơi! Con theo họ làm chi mà bây giờ mẹ và các em con không còn quê hương?". Câu hỏi thốt từ đáy lòng của một bà cụ già 80 tuổi khi gặp lại con gái mình sau gần nửa thế kỷ, là một nỗi đau mà cần rất nhiều thời gian, rất nhiều thương yêu, rất nhiều cảm thông mới thấu tỏ. Tôi đau xót hiểu như vậy, nên đã hết sức cố gắng kể lại đời mình trong chiến tranh để mẹ tôi và gia đình ở trong Nam hiểu rằng, nỗi đau khổ này là bất hạnh chung. Cách duy nhất để chúng ta có thể ôm nhau vào lòng, gắng quên mọi đau đớn đã qua là hiểu được thấu đáo nỗi đau khổ của mỗi con người trong chiến tranh. Khi viết về đời mình, hình ảnh bà ngoại tôi, các dì dượng, các em họ của tôi, cũng như hình ảnh ba má tôi luôn ẩn hiện trong đầu óc tôi. Tôi thương yêu họ tận đáy lòng nên không hề có bất cứ định kiến nào trong chuyện hòa giải. Vườn quê ngoại tôi với hoa quả bốn mùa thơm ngát; tấm lòng bà ngoại với các dì là những kỷ niệm tôi mang theo từ nhỏ đến năm tôi 16 tuổi, rời khỏi gia đình, theo kháng chiến. Nó mãi mãi là những kỷ niệm giúp tôi vững tin vào cuộc sống đầy gian truân của mình.
Phóng viên: Chiến tranh càng lùi xa, những người viết đã sống cùng cuộc chiến rồi mới viết ngày càng ít. Theo bà, sau này, những nhà văn làm thế nào để viết hay về đề tài chiến tranh cách mạng khi thiếu trải nghiệm?
ĐD, NV Xuân Phượng: Lịch sử văn học thế giới cho biết không phải nhiều người viết đã tham gia cuộc chiến sẽ viết hay hơn những người trẻ chưa biết chiến tranh. Quan trọng cực kỳ là sự tư duy nghiêm túc, ý thức trách nhiệm của người cầm bút và tâm hồn rung động khi nghĩ đến đề tài mà mình đang theo đuổi. Tôi tin chắc chắn rằng, sau này sẽ có những tác phẩm về chiến tranh cách mạng Việt Nam làm rung động hàng triệu triệu người trên thế giới. Những nhà văn ấy có thể thiếu trải nghiệm thực tế về chiến tranh, nhưng lại có đủ độ lùi thời gian nghiền ngẫm, đủ tài năng thể hiện và quan trọng nhất là đủ tâm huyết đề tài này để đã hạ bút viết với một trái tim đầy rung động và đầy yêu thương. Khi người ta yêu nồng cháy thì điều thần kỳ nhất định sẽ xuất hiện.
- Phóng viên: Trân trọng cảm ơn nữ ĐD, NV đã chia sẻ!
K.N.T
Nguồn: Văn nghệ Đồng Nai số 86 (Tháng 4 năm 2025)