
Phó trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Đồng Nai Lại Thế Thông phát biểu chỉ đạo tại buổi gặp gỡ văn nghệ sĩ. Ảnh: La Giang
Tại buổi làm việc của lãnh đạo Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh uỷ với văn nghệ sĩ tiêu biểu Đồng Nai mới đây nhằm tiếp tục triển khai các hoạt động hướng tới hoạt động tổng kết văn học nghệ thuật (VHNT) 50 năm sau ngày đất nước thống nhất, thiết thực chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII; gặp gỡ trao đổi, phối hợp trong lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng định hướng phát triển VHNT, đã có nhiều ý kiến tâm huyết của đội ngũ văn nghệ sĩ đánh giá cao sự quan tâm, tạo điều kiện hoạt động sáng tạo VHNT của lãnh đạo tỉnh, nhất là thời gian những năm gần đây.
Theo đó, tác phẩm VHNT cũng ngày càng tăng về số lượng và chất lượng, nhiều tác phẩm đoạt giải cao vươn tầm quốc tế, trong nước, đời sống VHNT phong phú, góp phần đáng kể vào xây dựng đời sống văn hoá tinh thần, bồi đắp tư tưởng, tình cảm nhân dân thêm yêu quê hương, sống gắn bó nghĩa tình, năng động sáng tạo trong lao động sản xuất kinh doanh, xây dựng gia đình ấm no hạnh phúc, đời sống xã hội phát triển.
Các ý kiến cũng hiến kế, tham mưu cùng lãnh đạo, cơ quan chức năng tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động VHNT đi vào chiều sâu, nâng cao chất lượng toàn diện, góp phần hiện thực hoá Nghị quyết số 12/NQ-TU ngày 12-12-2023 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con người Đồng Nai trở thành nguồn lực, động lực quan trọng cho phát triển toàn diện và bền vững. Một trong những ý kiến trao đổi chúng tôi cho rằng có tính cấp thiết để lan toả mạnh mẽ hơn nữa việc tiếp nhận VHNT trong hệ thống nhà trường phổ thông.
Lâu nay, việc tiếp nhận VHNT trong hệ thống trường học trên địa bàn tỉnh không phải là ít. Các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông, dạy nghề đã bám sát sự lãnh đạo, chỉ đạo của lãnh đạo tỉnh, của các sở ngành trong xây dựng chương trình, nội dung, không ngừng đổi mới sáng tạo phương pháp dạy và học. Hệ thống thư viện trường học tiếp nhận nhiều nguồn tư liệu, tài liệu, sách báo, tạp chí phong phú, đa dạng, đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, tham khảo, bồi đắp, nâng cao đời sống tinh thần cho các thế hệ học sinh, thầy cô giáo. Ngữ liệu VHNT cũng do đó đảm bảo tính phong phú, đa dạng. Ngoài phần bắt buộc sách giáo khoa, còn được bổ sung nguồn ngữ liệu là các tác phẩm VHNT, báo chí của tỉnh nhà do đội ngũ văn nghệ sĩ trong tỉnh hoặc ngoài tỉnh sáng tác về đất nước, quê hương Đồng Nai yêu dấu, về sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Tuy vậy, cũng phải thừa nhận việc tiếp nhận VHNT trong hệ thống trường công lập và dân lập chưa được nhiều. Phong trào đọc sách báo, viết thu hoạch sách báo sau khi đọc, làm theo sách báo, lấy ngữ liệu từ sách báo là các tác phẩm VHNT, báo chí trong các nhà trường còn khá khiêm tốn, có nơi còn mang tính phong trào, chiếu lệ, chưa đi vào thực chất, thiếu chiều sâu. Qua theo dõi, nắm bắt từ thực tiễn, cho thấy các bộ đề kiểm tra, thi hằng năm (đề tham khảo, thi thử và chính thức) của các trường phổ thông chủ yếu sử dụng ngữ liệu trong sách giáo khoa hoặc ngoài sách giáo khoa nhưng không phải là ngữ liệu từ các tác phẩm VHNT của văn nghệ sĩ tỉnh Đồng Nai sáng tác hoặc viết về Đồng Nai.
Giáo viên ngữ văn Hoàng Thị H, trường Trung học Cơ sở Chu Văn An (Long Khánh) cho biết, chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 quy định, nhà trường có 35 tiết giáo dục địa phương, nhưng hầu hết chỉ đưa những ngữ liệu cũ. Nói đổi mới mà ngữ liệu cũ, vẫn xoay quanh sách giáo khoa đưa xuống thì chưa phải là đổi mới.
Còn Thạc sĩ ngữ văn Lê Thị Hồng Nhạn, Trường TTHPT Phú Ngọc (Định Quán) chia sẻ, giáo viên tự tìm ngữ liệu ngoài trường nhưng chỉ là những tác phẩm nổi tiếng, còn các văn nghệ sĩ trong tỉnh thì chỉ nhắc đến tên họ thôi!? Cũng vì thế, để kích thích đam mê văn chương cho học sinh, nhà trường thi thoảng tổ chức ngoại khoá, giúp các em tìm hiểu thêm trước các kỳ thi.
Những gợi mở chân thành trên rất khác so với Trường Trung học Phổ thông Mê Linh (Hà Nội), nơi nữ thạc sĩ ngữ văn Nguyễn Thanh Hương công tác. Cô Hương cho biết: “Quy định số tiết được sử dụng ngữ liệu ngoài sách giáo khoa rất rõ, chúng em chú trọng khai thác ngữ liệu mới tại chỗ của các nhà văn nhà thơ Hà Nội, phù hợp về thẩm mỹ, giáo dục để đưa vào chương trình nội dung giảng dạy". Điều này đặt ra cả hai phía:
Phía người sáng tạo các tác phẩm VHNT, có thể có những tác phẩm được đánh giá cao nhưng chưa phù hợp với việc lựa chọn để đưa vào làm ngữ liệu cho dẫn chứng, bài giảng, đề thi, kiểm tra. Nếu hoàn toàn ở góc độ này thì đội ngũ văn nghệ sĩ, nhất là các nhà văn, nhà thơ cần phải xem lại chính mình và sáng tác của mình. Chẳng hạn nhà thơ khi làm thơ, cần đặt ra câu hỏi điều gì làm cho thơ khác biệt!? Yếu tố thể loại, về phương thức trữ tình, bộc lộ cảm xúc, sự cô đọng, hàm súc và giàu nhạc tính hay chưa!? Mặt khác, đã bám sát những đặc trưng cơ bản của thơ như yếu tố cuộc sống, tính chất mãnh liệt, sự siêu thăng và khái quát hoá hay chưa!? Mảnh đất giàu truyền thống văn hoá lịch sử, nhất là trong khai hoang, mở cõi, chống kẻ thù, xây dựng con người và đời sống mới như Đồng Nai mà chưa có tác phẩm tương xứng, thì khó lòng trở thành ngữ liệu cho dạy và học ở bậc phổ thông.
Ở phía tiếp nhận, việc vận dụng quy định, cơ chế phối thuộc của hệ thống nhà trường với đội ngũ văn nghệ sĩ; tình hình nghiên cứu, ứng dụng và khả năng thẩm thấu, cách phân tích, đánh giá, trao đổi các tác phẩm VHNT nói chung, văn xuôi và thơ ca nói riêng trong các thầy cô giáo, ở tổ bộ môn, ban giám hiệu nhà trường đã “dám nghĩ, dám làm" để xây dựng hệ thống ngữ liệu giảng dạy, lấy dẫn chứng vào bộ đề thi, kiểm tra hay chưa!? Hay chỉ mới dừng lại ở mức độ tiếp nhận, đánh giá cá nhân mà chưa thể ứng dụng đưa vào dạy và học các tác phẩm VHNT do đội ngũ văn nghệ sĩ của Đồng Nai sáng tác? Về việc này chỉ có ở đội ngũ thầy cô giáo nhà trường mới đưa ra câu trả lời chính xác.
Dưới góc nhìn của người nghiên cứu, chúng tôi khiêm tốn thấy rằng, từ phía lãnh đạo cần có chủ trương và giải pháp cụ thể, phù hợp cho sự gặp nhau giữa người sáng tạo VHNT và bạn đọc, người và nơi tiếp nhận. Sáng tạo VHNT là tự do, chỉ có luật định chứ không có vùng cấm, nhưng sáng tạo thế nào để có nét riêng trong tiếng nói chung, mang tính giáo dục, tư tưởng, thẩm mỹ, tính đảng, tính chiến đấu vào tác phẩm làm nổi bật nét đặc trưng lịch sử, văn hoá Đồng Nai, phục vụ cho phát triển bền vững về con người, kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh như Nghị quyết số 12 Đảng bộ tỉnh xác định lại hoàn toàn phụ thuộc vào tài năng, đức độ, trí tuệ của từng văn nghệ sĩ.
Tiếp nhận VHNT là hiện tượng có tính quy luật mang tính chủ động, sáng tạo; là lĩnh vực rộng lớn về cách thức, con đường, đòi hỏi quá trình nghiên cứu công phu, xác lập vai trò, vị trí người đọc, mà ở đây chính là đội ngũ thầy cô giáo, nhà trường và các em học sinh đam mê văn chương, là con đường ngắn nhất để tác phẩm đi vào đời sống xã hội nói chung và đời sống học đường. Qua đó, sức sống của các tác phẩm VHNT càng tăng thêm. Nên chăng, cần có cơ chế phối thuộc và “đặt hàng" để có những tác phẩm có giá trị cao, tạo nên tiếng nói chung, độ rung ngân ngày càng vang xa trong đời sống văn hoá tinh thần vốn có, khẳng định thế mạnh của Đồng Nai.
Hướng tới tổng kết VHNT 50 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam và thiết thực chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh Nhiệm kỳ 2025 - 2030, thiết nghĩ vai trò đội ngũ văn nghệ sĩ không ngừng nâng cao bản lĩnh, tích cực chủ động, sáng tạo ra nhiều tác phẩm có giá trị phục vụ đời sống nhân dân tỉnh nhà ngày càng thiết thực hơn; đồng thời, thúc đẩy vai trò tiếp nhận VHNT, nhất là trong hệ thống nhà trường cần có sự quan tâm, đổi mới và sáng tạo, đưa VHNT tỉnh nhà phát triển rực rỡ hơn nữa, giúp đời sống VHNT “thăng hoa", góp phần xây dựng đời sống văn hoá tinh thần Đồng Nai ngày càng tươi đẹp.
L.G
Nguồn: Văn nghệ Đồng Nai số 86 (Tháng 4 năm 2025)