Thứ 6 - 26/02/2016
Màu đỏ Màu xanh nước biển Màu vàng Màu xanh lá cây
Chào mừng kỷ niệm 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025)
Chào mừng Đại hội Hội Văn học Nghệ thuật Đồng Nai lần thứ VII (nhiệm kỳ 2025 - 2030)
“Rực rỡ sắc mai vàng, mừng Đảng, mừng Xuân, mừng Đất nước vươn cao tầm đổi mới; Thắm tươi màu cờ đỏ, chúc Đoàn, chúc Hội, chúc Đồng Nai nỗ lực để thành công" (Dương Thanh)
LUÂN HỒI LÁ - NHỮNG SẮC XANH THẮM MÃI

 luân hồi lá.jpg

Nhà thơ Đàm Chu Văn vừa xuất bản tập thơ “Luân hồi lá", Nhà Xuất bản Hội Nhà văn 2024. Đây là Tập thơ thứ 11 của anh (kể cả thơ viết cho thiếu nhi), trong 12 tác phẩm văn chương đã xuất bản.

Tôi nhận được tập thơ “Luân hồi lá" của nhà thơ Đàm Chu Văn trong một chiều xuân mưa phùn ảm đạm. Khi mở lướt xem, ngay lập tức bị cuốn vào câu chữ mà quên đi cái lạnh đang se sắt bủa vây. Tôi bắt gặp chính mình với cảm thức về lòng biết ơn về những hy sinh của những con người đi trước, về sự ngưỡng mộ một tâm hồn nhạy cảm, luôn ngân lên những cung bậc cảm xúc mãnh liệt trước con người và những địa danh, địa vật của đất nước, quê hương, trước những điều tưởng vô cùng nhỏ bé mà có ý nghĩa thật lớn lao.

Tập thơ chia làm hai phần, với hai mảng đề tài khác nhau. Phần một, có tựa đề “Lá trung quân", cũng là nhan đề của một bài thơ trong đó. Những bài thơ trong phần này viết về chiến tranh với những người lính, những địa danh và các sự kiện lịch sử. Còn phần hai, với tên gọi “Như chừng xanh hơn", với những bài thơ viết về những vùng đất có dấu chân anh và những ký ức về bà, về mẹ, về những kỉ niệm của tình yêu đôi lứa, về những quan sát nhân văn trong cuộc sống đời thường.

Lá trung quân, một loại lá đã đi cùng và che chở chiến sĩ ta suốt một thời kháng chiến gian khổ, tên gọi lá mang phẩm chất trung thành từ trong lịch sử. Vì thế, với trái tim nhạy cảm của mình, nhà thơ Đàm Chu Văn đã vẽ nên bức chân dung của lá bằng những câu thơ đong đầy cảm xúc, sự ngưỡng mộ và lòng biết ơn như trái tim anh dành cho những người chiến sĩ năm xưa hy sinh quên mình vì Tổ Quốc:

“Cây nghiêng lá/ nghiêng màu sức trẻ/ ngàn sông suối/ ầm ào, dồ dạt/ đền nợ nước/ tiếc chi đời trai…".

Vì thế, anh đã chọn “Lá trung quân" làm tựa đề cho nội dung phần thứ nhất trong chuỗi cảm xúc về lịch sử với những địa danh và những con người sống mãi với thời gian. Theo dòng lịch sử, ta bắt gặp những cái tên lần lượt được nhà thơ nhắc tới với một niềm kính phục và biết ơn sâu sắc đối với sự hy sinh của các bậc anh hùng. Đó là khi đứng trước Đền Hùng trầm mặc khói hương, nước mắt nhà thơ rưng rưng nghĩ về nỗi gian truân của cha ông thuở ấy: 

“Gót mòn sỏi đá mười phương/ Thấm vai trĩu nặng, nắng sương kiếp người…". 

Rồi hơi ấm nhân sinh trong ngôi chùa Một mái, nơi thờ tự một nhà vua hoá Phật, là Bến Thượng với lời thề quyết thắng của Quốc công Tiết chế Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn trước trận Bạch Đằng vĩ đại năm ấy. Tác giả khéo léo lồng ghép giữa chân dung lịch sử với trái tim đầy cảm xúc của nhà thơ để khơi lại cho người đọc hình dung về bức tranh quá khứ hào hùng, oanh liệt của cha ông.

Theo dòng lịch sử ấy, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam trong thế kỷ 20. Nhà thơ bắt đầu bằng cảm xúc về Người Cha vĩ đại của dân tộc trong Hương Huệ trắng, Khúc ru Côn ĐảoHương khói vẫn thơm bay. Nếu như Hương Huệ trắnglàn hương riêng trong trái tim Người tự thời trai trẻ để nói lên sự hy sinh hạnh phúc riêng của Bác Hồ cho hạnh phúc nước non thì Hương khói vẫn thơm bay là làn hương của lòng tin yêu, kính trọng vô bờ của muôn triệu trái tim dành cho Bác:

 “Giặc điên cuồng, bom đạn, cùm gông / Không ngăn được lòng dân yêu kính Bác…"./ “Ngôi đền nhỏ đất Đồng Nai, tạc niềm tin triệu khối óc con tim cả nước/ Cùng những bông súng trắng tự cánh đồng Long Thành, Nhơn Trạch/ lặng dâng hương…". 

Và trong Khúc ru Côn Đảo lại nói về sự gian nan khổ cực của biết bao chiến sĩ bị đoạ đày cùng cực, nhưng họ không chùn chân, lùi bước, không khuất phục kẻ thù vì họ một lòng tin vào lí tưởng, con đường cách mạng của Đảng, của Bác:

“Xin dâng lời của ngàn năm/ Tâm thành, ngưỡng vọng, chí vươn theo Người…".

Điều đó đủ để cho hậu thế hôm nay hiểu được công ơn của Bác Hồ kính yêu dành cho dân tộc Việt Nam ta vĩ đại đến nhường nào.

 Đề tài được phát triển rộng ra với chân dung về những vị anh hùng liệt sĩ, đó là anh hùng liệt nữ Võ Thị Sáu, liệt sĩ Ngô Văn Nhỡ, Tô Ngọc Vân, là cô giao liên, là một người thương binh anh gặp, là già làng Năm Nổi... Tất cả các nhân vật anh hùng, liệt sĩ được thơ anh phục dựng một cách tinh tế nhất, làm nổi bật những con người kiên cường, bất khuất, trung với nước, hiếu với dân, trước họng súng kẻ thù vẫn không nao núng. Và cho người đọc thấy rõ, ẩn sâu trong hình hài thép là những thương tổn, đớn đau xương thịt họ phải cắn răng chịu đựng, là nỗi niềm đau đáu nhớ thương về quê hương, gia đình, bè bạn:

“Đôi màng nhĩ thủng toang/ Không một âm thanh nào của cuộc sống thường ngày lọt vào tai anh nữa…" (Về một người thương binh)

“Chị ngước về phía mặt trời đón làn gió biển/ Những bàn tay âu yếm cuối cùng ve vuốt mặt người thân…" (Ngày chị Sáu hy sinh)

Những anh hùng, liệt sĩ ấy họ ra đi xả thân, cứu nước rồi họ hi sinh. Nhưng hi sinh ấy diễn ra ở đâu? Tác giả có câu trả lời ngay, sự hy sinh của những con người ấy gắn liền với những địa danh, những sự kiện lịch sử uy linh. Và trái tim nhà thơ một lần nữa lại rung lên trước dấu tích năm xưa để lại. Đó là Nhơn Trạch, là cầu Mường Thanh, là ghềnh Bến Cự, đèo Lũng Lô, khu di tích Chiến khu D, là những mảnh làng trên sông La Ngà năm 1978, là biên giới Tây Nam. Tất cả hiện lên vừa trong màu áo mới sáng tươi, ngập ngời sức sống, vừa là bức tranh sống động về cuộc sống, chiến đấu gian nan, sự hy sinh tột cùng của ông cha ngày ấy vì khát khao đất nước hoà bình:

“Sân bay Điện Biên những cánh bay bay lên từ thảm lúa chín vàng/ Mùi lúa thơm dâng lên tận trời/ Những đám mây ở đây cũng sực nức mùi thơm của lúa.../ Hoa ban hồng, hoa ban trắng áo em…". (Bên cầu Mường Thanh) 

“Ngày trước quân qua trong đạn réo/ Máu loang nước cuốn ngực riết ghì/ Cây choàng tay níu sông nâng sóng/ Thác gầm tiễn biệt những người đi…"/ (Ghềnh Bến Cự)

“Nẻo mờ. Vết đạn còn đau/ Ru trang cổ tích góp màu đất đai…"./ (Bên gốc dầu cổ thụ Chiến khu Đ)

Hay khi viết về Biên giới Tây Nam, nhà thơ đặc tả lằn ranh ấy trong mối thâm giao như tình làng nghĩa xóm, như anh em kề cận để làm đòn bẩy cho việc lên án tội ác man rợ quân diệt chủng, xâm lược. Nhưng rồi anh khẳng định, cho dù chúng dã tâm tàn độc đến đâu, cũng không thể làm đổi thay tình nghĩa gắn bó của nhân dân hai nước. Thế mới biết, người Việt Nam dù ở bất cứ đâu, không phân biệt màu cờ sắc áo, luôn lấy nghĩa nhân làm cốt lõi, lẽ sống.

Trong chuỗi cảm xúc ở phần hai mhư chừng xanh hơn, nhà thơ dành trái tim mình cho cảnh sắc thiên nhiên, con người và nếp sống văn hóa nơi anh sinh ra và những nơi anh đến, dành trái tim mình cho chuỗi kí ức thiêng liêng về những người thân yêu hay những ngẫm ngợi suy tư về tình yêu, về cuộc sống quanh mình. 

“Nụ cười mẹ, ánh mắt cha đã ở ngay trước mặt/ Trút đi bao nhớ thương đằng đẵng/ Ngày mai con lại về áp chân trần lên đồng đất quê hương/ Gặp lại cô bạn tuổi thơ ánh mắt ấm buổi đến trường…"./ (Chỉ còn một bước chân)

Lần theo dấu chân, người đọc sẽ bắt gặp những địa danh thuộc những vùng miền khác nhau trải dài trên đường cong hình chữ S mà nhà thơ có dịp ghé thăm. Từ phố thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, từ Bắc vào Nam. Ở bất cứ đâu, anh cũng chọn được cho mình một góc nhìn tinh tế nhất để thổi vào đó một linh hồn, một cảm xúc vừa thực vừa ảo, vừa có quá khứ, vừa có hiện tại và cả tương lại, vừa có cảnh vật, có con người và có bản sắc văn hóa đặc trưng nơi đó, vừa có tình yêu người dành cho đất và sự chở che đất tặng cho người:

 “Em mang về Hà Nội/ Tuổi thanh xuân và trái tim ham hiểu biết/ Hà Nội dạy em nên nghề/ thử thách em nên người/ để em góp vào Hà Nội/ như anh…". (Em mang về Hà Nội)

“Để mà nhớ, để mà quên/ Để nao nức với một miền chiêm bao…"./ (Đất quê Quan họ)

“Hương rừng vừa lạ vừa thân/ Men rừng chầm chậm ủ dần hồn ta…". (Uống rượu ở Cần Tà Lài)

Với quê hương, với mẹ, với bà là cảm xúc nhớ nhung thường trực trong tâm khảm khiến nhà thơ luôn khao khát trở về:

“Bước chân khắp chốn khắp vùng/ Nước trong thu thủy những mong một ngày…". (Giọng quê)

“Thu về, xanh ngắt tầng cao/ Nghe hương quả chín nao nao bóng bà…". (Cây thị của bà)

“Hương vị Tết ông bà ríu mỗi bước chân đi…". (Tết nhớ mẹ)

Viết về đề tài tình yêu, nhà thơ Đàm Chu Văn cũng chọn được cho mình lối viết rất riêng không lẫn vào ai. Đó là những cảm xúc chân thành, rất mãnh liệt của con tim thể hiện trong các bài thơ như Đắm, Lối Giêng, Màu áo em…

Và trước cuộc sống muôn màu, nhà thơ không khỏi động lòng trắc ẩn về những thân phận, những cuộc đời như người bán vé số, “Luân hồi lá" hay ngẫm ngợi suy tư về những điều diễn ra trong cuộc sống như Khẩu trang che nửa mặt người...

Đọc “Luân hồi lá" của nhà thơ Đàm Chu Văn, ta cảm giác như hồn thơ anh luôn dào dạt mà ở bất cứ đâu, trước bất cứ điều gì anh cũng có thể viết ra. Thể thơ đa dạng, tứ thơ độc đáo nhưng lại viết với ngôn từ giản dị, dễ hiểu, đề tài gần gũi với cuộc sống nên dễ đến gần người đọc. Tập thơ luôn biết chưng cất, gạn lọc những gì tinh tế nhất để mỗi bài thơ chạm đến lòng người.

Luân hồi lá - một tập thơ với cảm xúc mãnh liệt về tình yêu quê hương, đất nước và lòng biết ơn trước sự hi sinh của những con người đi trước đối với cuộc sống hòa bình hôm nay. Mời quý độc giả đón đọc và chiêm nghiệm.

L.T.X

Nguồn: Văn nghệ Đồng Nai số 86 (Tháng 4 năm 2025)


LÊ THỊ XUÂN
Object reference not set to an instance of an object.

Liên kết webiste

Thăm dò ý kiến

Đánh giá về trang thông tin điện tử Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đồng Nai

 

Số lượt truy cập

Trong ngày:
Tất cả:

HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT ĐỒNG NAI
Địa chỉ: 30 Đường Nguyễn Ái Quốc, P.Tân Tiến, Thành phố Biên Hoà, Đồng Nai
Điện thoại : 02513.822.992; Email: hvhnt@dongnai.gov.vn
Chịu trách nhiệm xuất bản: NSND. Đạo diễn Giang Mạnh Hà – Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đồng Nai.
Trưởng Ban biên tập: Trần Thu Hằng​​