Thứ 6 - 26/02/2016
Màu đỏ Màu xanh nước biển Màu vàng Màu xanh lá cây
Chào mừng kỷ niệm 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025)
Chào mừng Đại hội Hội Văn học Nghệ thuật Đồng Nai lần thứ VII (nhiệm kỳ 2025 - 2030)
“Rực rỡ sắc mai vàng, mừng Đảng, mừng Xuân, mừng Đất nước vươn cao tầm đổi mới; Thắm tươi màu cờ đỏ, chúc Đoàn, chúc Hội, chúc Đồng Nai nỗ lực để thành công" (Dương Thanh)
CHẲNG CÒN ÔNG BA BỊ CHÍN QUAI

​Ba bị chín quai

Mười hai con mắt

Hay bắt trẻ con.

Quê tôi, những năm 70, 80 của thế kỷ trước, đất chật, người đông mà nhà nào cũng sinh nhiều con. Cha mẹ suốt ngày ngoài đồng nên việc dạy bảo con cái cũng phải “song kiếm hợp bích" mới hiệu quả. Và ông “Ba bị chín quai" - một cách gọi tương tự như “ông Kẹ" - cũng góp phần vô cùng quan trọng vào việc răn đe đám trẻ con láo nháo chúng tôi.

Nhà tôi có năm chị em, mỗi người trong chúng tôi sợ một kiểu.

Chỉ Cả thuộc thế hệ 5x; chị lanh lẹn, hoạt bát, có cá tính và “chẳng biết sợ gì, chỉ sợ bà Tẻo". Là bởi bà cũng ăn trầu nên môi bà đỏ thắm, hai bên mép có hai vệt nước trầu đỏ tươi; răng đen nhưng nhức. Khuôn miệng bà rộng và hơi móm; mỗi khi bà nói, bờ môi dưới đỏ thẫm cứ chành ra, tiếng nói của bà sang sảng. Dáng bà cao lớn như đàn ông. Gặp trẻ con, bà hay nhìn chằm chằm khiến đứa trẻ sợ hãi, lấm lét, thậm chí tấm tức khóc. Lúc ấy, bà sẽ hỏi một câu quen thuộc: “Cái gì?". Bà hỏi mà chẳng cần nghe câu trả lời. Vì bà ăn trầu nên trong túi rút ở cạp quần luôn có con dao bổ cau bé xíu. Từ hình dáng, giọng nói, điệu bộ và “đạo cụ" của bà, gì cũng làm cho trẻ con khiếp sợ dù bà chẳng đánh, chẳng mắng đứa trẻ nào bao giờ. Như chị tôi, mỗi khi chị làm việc gì không phải, bố mẹ tôi chỉ dọa báo bà Tẻo là chị đủ “mất hồn". Chị sẽ sửa sai, sẽ ngay ngắn tức thì, đủ để làm gương cho bốn đứa em chấy rận dưới mình. Còn khi đang đi trên đường mà gặp bà, dù líu lưỡi chị vẫn cố chào bà một tiếng rồi quay mặt vào bờ dậu ven đường và khóc.

 Anh Hai thuộc thế hệ 6x đời đầu, anh sợ bà Khải. Bà Khải không giống bà Tẻo nhưng anh Hai sợ bà còn hơn chị Cả sợ bà Tẻo bội phần. Có lẽ anh sợ vì bà khác hẳn các bà già khác trong làng mà ngày nay người ta cho là nhân vật độc và lạ. Bà hay hát, bài hát ba câu với giai điệu vô cùng giản đơn. Và có lẽ bởi yêu sự giản đơn nên bà hát suốt ngày:

Dâng cờ lên

Dâng cờ lên

Chúng ta dâng cờ lên!

Vừa hát bà vừa biểu diễn động tác đi đều. Tay bà cầm một đoạn que kiếm được ở bờ rào. Và bà biểu diễn động tác dâng cờ theo giai điệu bài hát, theo nhịp chân đi, rất hùng tráng, giống như hồi cùng đoàn người đi phá kho thóc của Nhật.

Có lần anh Hai đang ngồi ở nhà xé sợi đay thì bà Khải đến chơi. Quê tôi có nghề dệt chiếu nên việc này, đứa trẻ con nào cũng phải tham gia. Dĩ nhiên anh tôi vẫn sợ bà, ngay cả khi ở nhà mình, ngay cả khi ở cạnh bên có mẹ. Sợ nên anh tìm chỗ trốn. Nhưng nhà thì chật, tuyềnh toàng lại chỉ có một cửa duy nhất. Cửa ấy, bà Khải đang tiến vào nên anh chui thẳng vào gầm giường.

Bà Khải biết có một “thằng ranh" đã không chịu chào hỏi lại còn trốn dưới gầm giường. Bà vào thẳng nhà, ngồi ngay lên giường, thả hai chân đung đưa, đung đưa trước mắt anh. Bà làm đay, nói chuyện với mẹ, coi như không có chuyện gì xảy ra để chờ anh tôi… đầu hàng. Nhưng anh tôi quyết cố thủ. Nỗi sợ bà Khải lớn hơn nỗi sợ cái gầm giường thấp hẹp, hôi hám, đầy mạng nhện. Chừng như canh chừng anh tôi một lúc thì bà là người nóng ruột trước, bà “e hèm, e hèm" hỏi mẹ tôi:

- Gầm giường nhà chị hôm nay có con gì nhỉ?

Mẹ tôi vừa muốn bênh, vừa muốn phối hợp với bà để chọc ghẹo con trai nên trả lời:

- Dạ không! Gầm giường nhà cháu chả có gì đâu bà ạ!

- Cái mắt cá chân tôi nhìn thấy có cái gì nhúc nhích mà!

Rồi không để mẹ tôi xin xỏ cho con trai, bà ra lệnh thẳng:

- Đứa nào trốn dưới ấy thì chui ra, ra mau!

Anh tôi lồm cồm chui ra, mạng nhện dính đầy người, mếu máo:

- Cháu chào bà Khải ạ!

Bà Khải nghe, giả điếc. Anh tôi mếu, cái miệng dài hơn, chào to hơn:

­- Cháu xin lỗi bà. Cháu chào bà Khải ạ!

Chừng như thương thằng bé con có thể vì sợ quá mà mất lớn nên lúc ấy, bà Khải mới dõng dạc:

- Ừ! Sao không đi chơi với bạn mà chui gầm giường hả cháu!

Anh Hai tôi giờ là sĩ quan Công an đã nghỉ hưu; cao 1.82m, nặng xuýt xoát một tạ nhưng lần nào kể lại chuyện từ gầm giường ra diện kiến bà Khải, anh vẫn diễn điêu luyện phân đoạn thằng bé con lúp xúp chạy, tay che che phía dưới thắt lưng như sợ bị ai đó đánh vào mông. Cảnh ấy là cảnh anh tôi hú hồn chạy khỏi nhà lúc được bà Khải thương tình tha bổng!

Anh Ba, chị Tư cùng thế hệ 6x đời cuối và cùng sợ ông Lân. Trong số những “ông Ba bị chín quai" của làng, ông Lân là người cầm tinh “Ngáo ộp" nặng nhất bởi ông có nhiều trẻ ranh khiếp sợ nhất.

Anh Ba nghịch ngợm nhất nhà nên mỗi khi bố mẹ tôi “bó tay" anh là gọi tên ông Lân. Ý tứ để nhắc, dọa anh tôi. Tên ông được kèm chữ Láo vì nghe nói hồi nhỏ ông nghịch, phá ghê lắm. Giọng ông lớn, đùng đùng như tiếng sấm; ông hay dọa trói, dọa bắt về nhà nuôi những đứa trẻ có lỗi. Ông không có con nên yêu và khao khát trẻ con. Sự khao khát ấy ông thể hiện bằng việc chơi đùa với chúng tôi theo cách của ông, đó là dọa nạt cho bằng sợ mới thôi. Khổ nỗi nhà ông gần trường học mà chẳng hiểu sao ông hay xuất hiện những lúc tan trường. Từ xa, thấy ông, đám trẻ chào râm ran:

- Cháu chào ông Lân ạ!

- Ừ!

Có đứa quýnh quá chào mà không nghĩ.

- Cháu chào ông Lân Láo ạ!

Ông Lân nghe có đứa xắt xéo chuyện mình láo thì giả điếc. Đứa nhóc càng sợ, mà càng sợ lại càng quýnh quáng, vừa khóc vừa chào lặp lại:

- Cháu chào ông Lân Láo ạ!

Không vội vàng, ông Lân còn nhìn trời, nhìn đất rồi thủng thẳng:

- Ừ!

Sợ nhưng chưa đứa nào dám bỏ chạy khi thấy bóng ông. Cũng bởi làng bé một tẹo, trốn biết có thoát nên trẻ con và ông Lân vẫn ra gặp vào chạm hàng ngày.

Đấy là lúc bé, còn vào tuổi choai choai, đứa nào cũng mê ông Lân. Ông tham gia đội bảo vệ của hợp tác xã nhưng ông hay làm lơ cho đám trẻ đói làm những việc bị cấm kiểu như cho vài đứa xuống ruộng mò cá với điều kiện không được làm nát lúa; mặc kệ nếu tụi tôi rút trộm vài nắm lúa của hợp tác xã; phủ thêm nắm rạ ngụy trang cho một đứa trẻ đang trốn sự tìm bắt của một bác bảo vệ khác…

Đơn giản vì ông mồ côi từ tấm bé, khi lấy vợ lại không có con, bởi thế ông yêu trẻ con. Yêu theo cách của ông, rất riêng ông.

Chẳng còn ông ba bị... - Ngô Xuân Khôi.jpg
Minh họa: Ngô Xuân Khôi

Tôi út ít và là 7X duy nhất trong nhà. Tôi sợ bà Gia vì tôi tưởng tượng bà giống những bà già nhăn nheo trong chuyện cổ tích. Dáng bà cao, hơi gù, gương mặt góc cạnh, quai hàm vuông, cái cằm nhọn hơi nhô ra; sống mũi cao và đôi mắt trũng sâu. Với dáng vóc và ngoại hình như vậy, theo quan niệm thời nay, bà là người phụ nữ đẹp hoặc có thể là người mẫu nổi tiếng nhưng thời đói khổ, gầy gò nên những đường nét, đáng lẽ là vẻ đẹp lại trở nên phản tác dụng.

Bà sống bằng nghề cất vó tép. Mỗi lần nhìn bà cầm cây gậy, nâng rồi tung cái vó tép trắng xóa lên trước khi cái vó đáp xuống mặt nước là trong đầu tôi quay mòng mòng với những ý tưởng đậm chất thần thoại. Bởi động tác cất vó của bà thành thục và điêu luyện quá; bởi bà cất vó tép giỏi quá nên tôi luôn nghĩ bà là một bà già phép thuật. Không có phép thuật sao bà cất vó mà đẹp như múa; sao lúc nào tép mẹ, tép con cũng xúm xít rủ nhau vào vó của bà, cho bà cất lên, bán lấy tiền mua gạo? Tôi sợ bà, sợ ghê gớm, nhìn hay nghĩ tới bà là tưởng tượng đủ kiểu. Thậm chí, tôi còn có niềm tin mãnh liệt rằng, một ngày nào đó, bà cưỡi cây chổi mà bay lên, khi ngang qua một đứa trẻ, bà sẽ tóm lấy, mang theo.

Tôi sợ ngay cả khi có việc phải đi ngang qua nhà bà, giữa ban ngày. Cũng như những người anh, chị của mình, tôi chỉ cần ho he hay mắc lỗi lầm gì, chỉ cần bố mẹ tôi nhắc đến tên bà là đủ làm tôi xanh xám mặt mày và nhanh chóng “phục thiện".

Theo thời gian, những đứa trẻ chúng tôi lớn dần lên. Mười tuổi là không còn thấy sợ các ông, bà “Ba bị chín quai" của làng nữa. Chưa kể, có khi chính các ông, các bà phải sợ ngược lại, bởi chúng tôi có vô số những trò nghịch phá thành thần.

Sau này lớn lên, ngẫm lại, hóa ra sợ hãi cũng là một cảm giác tuyệt vời của tuổi thơ. Từ trạng thái sợ tột đỉnh, vô cùng căng thẳng; ngay sau đó, khi được “ân xá", cảm giác như vỡ òa, như được giải phóng. Và phải cảm ơn các ông Ba bị chín quai, không có các ông, các bà, cha mẹ các cháu biết xoay sở, dạy dỗ sao để đàn con đông đúc nên người?

Xa làng, nếu hỏi những điều gì ghi nhớ, câu trả lời của mỗi người làng tôi sẽ luôn có hình bóng của bà Tẻo, ông Lân, bà Khải, bà Gia. Tôi cũng tự hỏi, chúng tôi nhớ mãi các ông, các bà bởi lẽ gì?

Có phải vì sự giản dị, quê mùa, vì các ông, các bà là biểu hiện của những phong tục, thói quen của người dân quê tôi? Cũng có thể, nhưng quê tôi ngày ấy làm gì có ai là người không quê mùa, giản dị với những phong tục và thói quen!

Hay có phải vì nỗi sợ hãi từ thuở ấu thơ còn ám ảnh đến bây giờ? Tôi nghĩ, không hẳn như thế, bởi khi bước sang tuổi thiếu niên, ông Ba bị chín quai với chúng tôi đã trở thành bè bạn. Vậy nên, trải qua mấy mươi năm cuộc đời, những chuyện sợ hãi thuở còn thơ chỉ là những câu chuyện vui khi gặp gỡ!

Hoặc có phải vì sự khác người, một chút lập dị của các ông, bà Ba bị làng tôi? Cũng đúng, nhưng có lẽ điều đó vẫn chưa đủ!

Chúng tôi nhớ mãi bởi các ông, các bà là một phần vô cùng sinh động, nhiều cảm xúc của tuổi thơ. Bởi các ông, các bà đều là những người mê và yêu con trẻ theo những cách rất ấn tượng và rất riêng. Nhưng dẫu có bằng cách nào thì tâm hồn nhạy cảm của đám trẻ quê chúng tôi vẫn cảm nhận được sự quan tâm và tình yêu thương mà các ông, bà đã dành cho mình.

Giờ làng tôi không còn ông Ba bị chín quai. Đi khắp làng, hầu như chỉ gặp người già và người lớn. Thanh niên đã vào Nam, lên Hà Nội, ra Hải Phòng hoặc đến sinh sống tại một thành phố nào đấy. Chỉ có vài đứa trẻ được cha mẹ làm ăn xa ở nơi đâu đó gửi về nhờ ông, bà chăm giúp. Những đứa trẻ sống với ông, với bà được nâng niu, yêu chiều như trứng mỏng. Nhưng tôi thấy rõ, chúng là những đứa trẻ con cô đơn; không có bạn lại sống với người già, bởi vậy chúng đều lằng lặng, ngoan ngoãn và hiền lành.

Như thế, thì cần người dọa nạt để làm gì.

Như thế, nên làng chẳng còn ông Ba bị chín quai.

Nhưng tôi thì tôi vẫn nhớ ông Ba bị chín quai của làng mình. Dẫu các ông, các bà đã về với tổ tiên nhưng mỗi lần bước chân chạm đến đầu làng, lứa 5X, 6X, 7X chúng tôi dường như vẫn thấy các ông, các bà đâu đó: Bên dậu tre dây, phía cổng trường hay dưới gốc đa đầu làng. Không nồ nạt dọa bắt, dọa trói; chẳng hét đùng đùng, cũng chẳng còn vẻ liêu trai kỳ bí, ông Ba bị chín quai đơn giản chỉ là một người làng; mộc mạc, hiền queo và thân thiện như một người bạn thiết đang đứng đó đợi chờ.

Tôi có một mong ước hơi viển vông là được gặp lại ông Ba bị chín quai của làng mình. Và nếu chỉ có một phút ngắn ngủi thôi, không đủ thời gian để nói về nỗi nhớ, tôi sẽ nói rằng: Dẫu sợ hãi và yêu thương không phải là hai trạng thái cảm xúc song hành, nhưng càng lớn, cháu càng cảm nhận rằng, ngày xưa chúng cháu sợ các ông, các bà bao nhiêu thì lớn lên lại càng thương, càng nhớ bấy nhiêu. Bởi với chúng cháu, các ông, các bà chính là những huyền thoại của làng mình, mà huyền thoại ấy, ngày nay đã trở nên thiếu vắng.

Cảm ơn các ông, các bà đã tặng cho tuổi thơ chúng cháu những cảm xúc, những hương vị tuyệt vời mà nhờ đó, những đứa trẻ làng mình đã “lớn"!

T.O

Nguồn: Văn nghệ Đồng Nai số 82 (Tháng 12 năm 2024)


TRÂM OANH
Object reference not set to an instance of an object.

Liên kết webiste

Thăm dò ý kiến

Đánh giá về trang thông tin điện tử Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đồng Nai

 

Số lượt truy cập

Trong ngày:
Tất cả:

HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT ĐỒNG NAI
Địa chỉ: 30 Đường Nguyễn Ái Quốc, P.Tân Tiến, Thành phố Biên Hoà, Đồng Nai
Điện thoại : 02513.822.992; Email: hvhnt@dongnai.gov.vn
Chịu trách nhiệm xuất bản: NSND. Đạo diễn Giang Mạnh Hà – Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đồng Nai.
Trưởng Ban biên tập: Trần Thu Hằng​​