Trương Thị Nguyên Hiền
(Nguồn: VNĐN số 12 – tháng 03 & 04 năm
2016)
Bảo tàng Đồng
Nai thực hiện triển lãm chuyên đề:”Bản sắc văn hóa Việt ở Đồng Nai” với hơn 170 hình ảnh tư liệu, 50 hiện vật. Đợt triển lãm cuốn
hút nhiều người xem trong dịp Xuân Bính Thân và kéo dài cho đến cuối tháng 3
năm 2016. Thông qua triển lãm người xem
nhận diện những sắc thái của Văn hóa Việt hình thành qua nhiều giai đoạn, được
gìn giữ trong cộng đồng và phát huy trong cuộc sống hiện tại: văn hóa vật chất
và tinh thần, nét sinh hoạt trong hôn nhân, tín ngưỡng – tôn giáo, lễ hội, làng
nghề truyền thống…
Người
Việt (Kinh) là một trong số hơn 30 dân tộc hiện đang sinh sống trên địa bàn Đồng
Nai, chiếm tỷ lệ khoảng 92% dân số. Những giá trị
tiêu biểu về đời sống văn hoá vật chất và tinh thần của người Việt được trưng
bày một số tổ hợp mỹ thuật tái hiện đời sống thực khá khoa học, tạo mới lạ hấp
dẫn người xem.
- Địa bàn quần
cư
Người
Việt đến khai khẩn Đồng Nai khá sớm, từ thế kỷ XVI. Họ đã chọn những vùng đất
ven sông từ miệt hạ đến trở lên vùng giáp ranh với khu vực có cư dân Mạ, Chơ-ro
– cư dân bản địa. Đó là các vùng Cù lao phố, Cù lao Rùa, Cù lao Tân Triều, Bến
Cá, Bến Gỗ... Qua thời gian, họ biến vùng đất Đồng Nai hoang vu trở thành những
cánh đồng lúa và hoa màu tươi tốt. Làng
xóm của người Việt ở Đồng Nai nằm dọc theo kênh, rạch hoặc ven sông. Ngôi nhà
nhìn chung thường hướng ra sông rạch hoặc đường lộ
để dễ bề đi
lại. Xung quanh có vườn cây ăn trái và ruộng vườn. Nhà
ở sử dụng nguyên vật liệu sẵn có trong môi trường tự nhiên: cột gỗ, mái
tranh hoặc
lá dừa, vách
lá buông, chân
cột kè
đá táng, mái ngói.
- Tín ngưỡng thờ Tổ tiên
Sinh sống
nơi vùng đất mới người Việt vẫn giữ lại tập quán ở quê gốc ở miền Bắc, miền Trung.
Tín ngưỡng thờ cúng ông bà, tổ tiên được lưu giữ trong nhiều thế hệ. Con cái
luôn ý thức sống phải luôn có trách nhiệm hiếu kính cha mẹ - là đạo lý tốt đẹp.
Đặc biệt, vào những ngày Tết không gian thờ tự của gia đình trở nên trang
nghiêm mang yếu tố tâm linh hướng về nguồn cội. Bàn thờ Tổ tiên là biểu tượng
thiêng liêng để tưởng nhớ cội nguồn. Bên cạnh phong tục thờ cúng ông bà, Tổ
tiên… người Việt còn bảo lưu những nghi thức truyền thống trong chu kỳ vòng đời người: cưới xin, đầy tháng,
thôi nôi, tục mừng thọ...
- Gian
bếp của mỗi nhà
Chiếm
không gian nhỏ nhưng gian bếp trong nhà người Việt luôn có một vai trò rất quan
trọng. Xưa nay, hình ảnh người phụ nữ luôn gắn với bếp núc của gia đình lo cái
ăn cho gia đình. Dù là gian bếp nơi chái tranh xưa hay
đầy đủ tiện nghi trong nhà ở phố, không gian bếp luôn mang lại cảm giác ấm
cúng. Gian bếp là nơi để người phụ nữ thể hiện lòng yêu thương, chăm sóc
gia đình qua những bữa ăn ngon, nấu những lễ vật dâng cúng tổ tiên trong những
ngày lễ.... Gian bếp của người Việt không thể thiếu những vật dụng: nồi, chén,
đũa, dĩa, đũa, ấm, rế, bình trà… Đó là những hiện vật liên quan đến văn hóa ẩm
thực phong phú. Bếp người Việt gắn liền với câu chuyện về Ông Táo và tục thờ
Táo quân. Hiện nay, nhiều nhà đã không còn sử dụng những ông Táo trong bếp
nhưng vẫn giữ tập tục tiễn đưa Táo Quân về trời vào ngày 23 tháng Chạp hằng năm
trước những ngày Tết.
- Nét đẹp trong lễ cưới
Lễ cưới
của người Việt ở ở Đồng Nai trước đây gồm 6 lễ: nạp thái, vấn danh, nạp cát, thỉnh
kỳ, nạp tệ và thân nghinh. Khi tổ chức đám cưới, nhà trai đem lễ vật qua nhà
gái để xin dâu và rước dâu về nhà chú rể. Nhưng lễ vật được đựng trong các quả
cưới màu đỏ của niềm mong ước hạnh phúc: cặp áo cưới, nhẫn cưới và tiền tặng cô
dâu, trầu rượu, trà, bánh...Trong đám cưới luôn có khay trầu rượu: trong đó có
gù rượu với 3 chung, 6 miếng trầu têm tượng trưng cho 6 lễ, một cặp đèn. Trang
phục truyền thống của chú rễ là áo rộng
xanh, quần trắng, bịt khăn đen, cô dâu mặc áo rộng, đội nón cụ quai tơ, khảm
vàng cạnh quai. Cô dâu và chú rể trong đám rước
có lọng che và đại diện của hai họ đi sau...Hiện nay, các lễ thức trong
lễ cưới được đơn giản hoá nhưng vẫn giữ được những lễ chính: lễ nói, lễ hỏi và
lễ cưới. Lễ vật cũng có nhiều thay đổi so với điều kiện kinh tế hay tín ngưỡng,
tôn giáo… của hai bên gia đình. Tuy nhiên, trầu, rượu, cau, bánh, trà, nhẫn…vẫn
còn được duy trì trong nhiều lễ cưới hiện nay.
- Lễ hội Kỳ yên
Mỗi
thôn làng người Việt thường có miếu, đền, đình thờ các thần linh. Thông thường,
mỗi làng đều có đình thờ Thần Thành hoàng bổn cảnh. Đây là vị Thần mà dân làng
tín niệm, tôn thờ như phúc thần luôn che chở cho người dân của địa phương. Hiện
nay, dù nhiều làng xưa đã lên phố thị nhưng ngôi đình vẫn tồn tại trong đời sống
của người dân. Tại đình, mỗi năm người dân tổ chức lễ Kỳ yên – ba năm 1 lần tổ
chức Đại lễ Kỳ yên. Lễ có nhiều nghi thức độc đáo đề cúng, nghinh Thần và các bậc
Tiền hiền, Hậu hiền, những người có công với làng xã. Mục đích của lễ cầu Thần
ban cho mưa gió thuận hoà, mùa màng bội thu, đem lại bình an cho xứ sở, hạnh
phúc cho con người. Trong lễ, nhiều đình tổ chức các trò chơi dân gian, hát xướng,
biểu diễn nghệ thuật, các tuồng tích lịch sử, hát bội hay lễ hội đua ghe...Lễ hội
là dịp người dân gắn kết nhau với tinh thần đoàn kết, tương thân, hướng về cội
nguồn, bảo lưu những nét sinh hoạt văn hoá truyền thống…
- Làng nghề truyền
thống
Đến
với vùng đất Đồng Nai, người Việt duy trì những nghề thủ công để mưu sinh, đáp ứng
nhu cầu của cuộc sống: nghề nấu mía đường, nghề là bánh tráng, nghề đúc gang,
nghề làm mộc.. Từ kinh nghiệm của quê cũ và thích ứng với đặc điểm, môi trường
của vùng đất mới, họ đã hình thành những nghề thủ công và dần thành lập các
làng nghề. Trong nhiều nghề thủ công hiện có ở Đồng Nai, tiêu biểu là nghề gốm.
Nghề
gốm Biên Hoà nổi tiếng bởi sự độc đáo qua nhiều giai đoạn phát triển. Gốm Biên
Hoà của người Việt có nhiều yếu tố tác động, có ảnh hưởng từ gốm của người Hoa,
người Chăm, của cư dân bản địa. Đặc biệt, có sự ảnh hưởng của kỹ thuật phương
Tây khi Trường Dạy nghề/ Bá nghệ Biên Hoà thành lập vào đầu thế kỷ XX khi chính
quyền thực dân Pháp quản lý. Sản phẩm gốm Biên Hòa tham dự nhiều Hội chợ triển
lãm quốc tế về mỹ thuật trang trí tại Paris (Pháp), Nhật Bản, Indonesia, Hà Nội
và Sài Gòn, được đánh giá cao, đạt nhiều danh hiệu, huy chương.
Hiện nay, nghề làm gốm ở Biên Hòa tập trung tại các phường Bửu
Long, Tân Vạn, xã Tân Hạnh và xã Hóa An. Cùng cới các làng nghề của cộng đồng
các dân tộc khác ở Đồng Nai, làng nghề thủ công ở Đồng Nai ngày nay là hoạt
đông kinh tế phát triển mạnh; đồng thời mang nhiều yếu tố của giá trị văn hoá.
*
Sắc
thái văn hóa Đồng Nai đa dạng do có nhiều thành phần dân tộc cộng cư qua các thời
kỳ lịch sử. Đồng Nai được xem là vùng đất khởi điểm, có một vị trí quan trọng
trong quá trình khai khẩn Nam Bộ. Người Việt đến Đồng Nai khai khẩn từ rất sớm
và đã góp phần làm cho vùng đất này phát triển trên nhiều lĩnh vực. Cùng với
văn hóa của các lớp cư dân cổ, bản địa và các thành phần khác, văn hóa Việt đã
khẳng định sức sống mạnh mẽ, tạo nên những dấu ấn độc đáo trong dòng chảy văn
hóa của Đồng Nai. Thông qua triển lãm nhằm tuyên truyền đến nhân dân, nhất là
thế hệ trẻ nhận diện giá trị di sản văn hóa mà thế hệ tiền nhân gây dựng, lòng
tự hào và nêu cao tinh thần yêu nước, góp phần trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, xây dựng quê hương Đồng Nai ngày càng văn minh, giàu đẹp.
T.T.N.H
Tổ hợp mỹ thuật
giới tái hiện lại không gian thờ tự trong gia đình và gian bếp của người Việt ở
Đồng Nai