Truyện
ngắn của Trần Thúc Hà
(Nguồn: VNĐN số 14 – tháng 07 & 08 năm 2016)
Minh hoạ: Tấn Hưng
Đó là một đêm ngừng
chiến trong những năm tháng đánh trả giặc Mỹ ở miền Bắc.
Tôi ở đại đội Thanh
niên xung phong, đơn vị có nhiệm vụ sửa đường, phá bom nổ chậm, bom từ trường,
thủy lôi hẹn giờ dài chừng tám cây số từ một cửa biển đến một bến phà trên cung
đường tuyến lửa qua một vùng đồi thấp ở Quảng Bình.
Thị xã tôi ở bị bom
Mỹ san bằng, dân sơ tán về miền đồi núi. Mồ côi bố mẹ từ bé tôi ở với cậu. Mười
tám tuổi tôi học hết cấp ba, xung phong đi bộ đội nhưng không được chấp nhận vì
cậu tôi có người làm sĩ quan cho chính quyền Sài Gòn. Tôi buồn trong lúc nhiều
bạn học của tôi đã lên đường vào Nam chiến đấu. Có đợt tuyển một đại đội Thanh
niên xung phong phục vụ chiến đấu tại địa phương tôi ghi tên. Chị Thanh hai
mươi hai tuổi người cùng lối phố, đã tốt nghiệp cấp ba trước tôi, chị hơn tôi
bốn tuổi. Chị đẹp người, dịu dàng, nước da trắng, mái tóc đen mượt dài gần chấm
gót. Chị không được gọi vào đại học vì cha chị biệt tích không rõ ràng sau năm
1954. Chị về làm thợ may. Phong trào thanh niên Ba sẵn sàng đánh Mỹ làm cho chị
đứng ngồi không yên. Chị cắt tóc ngắn ngang vai, dẹp nghề may, từ giã mẹ, xin
vào đại đội thanh niên xung phong cùng đợt với tôi. Chúng tôi được ở cùng một
trung đội. Trung đội có hai tiểu đội nam, một tiểu đội nữ.
Những năm 1971, 1972
Quảng Bình nhiều bom đạn quá! Đoạn đường chúng tôi dưới sông máy bay liên tiếp
thả thủy lôi từ trường, trên bộ cứ cách trăm mét có bom nổ chậm đã bị bom phá
cày xới vùi sâu. Cả đại đội ngày đêm căng sức ra nhưng cũng có khi vài ba ngày
đường mới thông, hết bom nổ chậm. Lúc này chúng tôi thương vong nhiều, không
đầy một tháng có đến ba đứa hi sinh, bảy đứa bị thương trong khi rà phá bom,
nhưng khi được báo đường tắc không một đứa nào buông xẻng, buông cuốc, kể cả
mấy cô gái, trong đó có chị Thanh.
Đêm ngừng chiến. Ngay
chiều hôm đó chúng tôi đã dốc toàn lực con đường không còn nơi nào bế tắc, đại
đội phân công một số túc trực phòng có sự cố bất ngờ. Tôi hẹn chị Thanh: “Đêm
hết phiên trực, ra đồi kia em có chuyện”. Ngày còn ở lối phố chị Thanh đã coi
tôi như em, khi hai chị em không được gọi vào đại học thì tình cảm chị em tôi
càng thân thiết hơn vì cùng cảnh ngộ. Những ngày ở đại đội thanh niên xung
phong chị luôn chăm sóc tôi, khi rảnh rỗi chị giặt áo quần hay khâu vá cho tôi,
đôi lúc chị để dành cho tấm lương khô. Chị em chúng tôi thường động viên nhau
đừng để cho các bạn xem mình là dân chân yếu tay mềm, không được thua kém ai
trong công việc gì.
Đêm đó trăng mười tám
trời sáng, không lạnh lắm, chị em tôi ngồi xuống bên một bờ cây nhỏ. Chị lo
lắng hỏi tôi: “Chuyện gì vậy em?”. Tôi nói: “Sau đợt ngừng bắn này Mỹ sẽ đánh
phá ác liệt hơn, em linh cảm em sẽ chết”. Chị nói: “Em nghĩ vớ vẩn. Cái chết
đâu dễ dàng cứ theo như trong ý nghĩ của mình!”, tôi nói: “Tuần trước một đứa
bị thủy lôi nhận chìm, ngày kia một đứa bị bom nổ chậm vùi lấp, rồi sẽ đến lượt
em”. Chị nhìn vào mắt tôi, nói: “Em sợ chết!”. Tôi nói: “Em không sợ chết. Chị
biết đấy, có bao giờ em chịu giơ tay xung phong sau đồng đội của mình khi đi
vào chỗ nguy hiểm. Em đã xác định và đón nhận cái chết từ lâu. Chị đừng nghĩ
xấu về em”. - “Chị không nghĩ xấu về em. Trường hợp nào cũng phải hy vọng mà
đứng vững. Nhưng sao hôm nay em nói điều gỡ ấy nhỉ? Hay là có điều gì em muốn
nói với chị?” Tôi nói: “Dạ có!” - “Em cứ nói, chia sẻ được gì chị sẵn sàng”.
“Em cảm ơn chị! - tôi ngừng một lúc rồi tiếp - Cả thời đi học cho đến bây giờ
có đứa con gái nào làm quen với em nên em chưa hề biết được một làn môi nóng
bỏng của con gái. Chết đi, em tiếc nuối lắm chị ơi! Chị hãy thương em…”. Nói
đến đây thì cổ họng tôi tắc nghẹn, đầu óc choáng váng, tim loạn nhịp. Tôi úp
mặt xuống hai đầu gối, toàn thân tôi rung lên. Chị giật mình hỏi: “Em làm sao
thế?”. Cố lắm, cố lắm tôi phải lấy hết sinh lực giọng lạc đi, dứt quãng nói rất
khẽ: “Chị cho… em… hôn chị”. Lặng đi một chốc, đôi bàn tay chị nâng mặt tôi lên
rồi ghé sát vào môi tôi. Nước mắt của chị em tôi đầm đìa trào xuống miệng mằn
mặn - vị mặn có cả ngọt ngào mà lần đầu tiên tôi biết đến. Suốt đêm hôm ấy chị
nhìn những vì sao mờ mờ trong ánh trăng cất lên khe khẽ những bài hát chị yêu
thích Bài ca hy vọng, Xa khơi vỗ về
ru tôi như ru một em thơ. Tôi nhắm mắt. Hồn tôi lâng lâng bay bổng trong tình
thương dịu ngọt của con thơ với mẹ, của người chị với đứa em; với bầu trời bao
la, không một ánh chớp, không tiếng bom, không gian yên tĩnh đến kỳ lạ, tôi
không ngủ. Những gì tang tóc của chiến tranh, cái chết ám ảnh trong tôi không
còn nữa. Tôi như một em bé được bà Tiên đưa đi dạo chơi trong một đêm trăng
đẹp.
Hôm sau có người báo
với ban chỉ huy chị em chúng tôi hủ hóa. Đại đội trưởng cho gọi chúng tôi lên.
Ông là cán bộ kỹ thuật của Ty Giao thông tỉnh biệt phái về chỉ huy đại đội
chúng tôi. Ông chừng ba mươi tuổi, người không to cao lắm, nước da nâu, nét mặt
nghiêm nghị rắn rỏi làm chúng tôi ngại cái uy của ông. Ông rất nghiêm khắc với
chúng tôi là khi có cán bộ quân sự trên binh trạm về hướng dẫn cách rà phá bom
mìn, nếu ai lơ là chỉ vài giây thôi, hay khi báo động có B52 sẽ rải bom xuống
vùng đóng quân mà ông đi kiểm tra thấy đội viên nào chưa vào hầm ẩn nấp thì ông
phạt rất nặng, bằng cách đến nơi mới, người bị phạm lỗi phải đào gấp hai lần số
hầm hào mỗi người phải đào. Ông nói phạt nặng không chết bằng bom đạn. Ông luôn
buộc chúng tôi phải chấp hành triệt để những yêu cầu đề ra trong trong chiến
đấu, hàng ngày trong sinh hoạt phải giữ đúng nội quy cũng chỉ với mục đích
tránh cho chúng tôi giảm bớt thương vong vì bom đạn lúc nào cũng có thể xảy
đến. Ông còn là một cán bộ chỉ huy dũng cảm bất kỳ nơi nào có tiếng bom, có
thủy lôi từ trường ông đều có mặt sớm hơn chúng tôi để nhận định đánh giá thiệt
hại, khắc phục hiện trường… Đại đội trưởng mặt sắt lại, lạnh lùng mắng chúng
tôi: “Tiểu tư sản sa đọa, tha hóa làm ô danh, không xứng đáng chiến sĩ thanh
niên xung phong”. Thấy bị sĩ nhục quá, chị khóc. Còn tôi, tôi cứ đứng ngây ra
tựa như người chỉ huy đang quát nạt ai đó. Người chỉ huy nói: “Sờ sờ ra đấy mà
không nhận tội hả! Khóc, oan ức lắm sao!”. Chị ngẩng mặt lên nói: “Chị em chúng
tôi chuyện trò với nhau, chẳng có gì sai phạm!”. Người chỉ huy đập tay xuống
mặt bàn, bàn kết tạm bằng những cây hóp nhỏ mọc bên bờ suối làm chúng xô xệch,
quát: “Ngoan cố! Hôm nay hai đồng chí
không được đi đâu hết, ở nhà làm kiển điểm”. Chúng tôi biết kiểm điểm điểu gì?
Chị bảo không ai hiểu được tình cảm của chúng tôi lúc ấy, dù có nói ra sự thật
chắc gì cán bộ đã tin đấy là một tình thương yêu chị em khác với thông thường,
có gì sai phạm đâu! Có bị đuổi về địa phương cũng cam lòng chứ không chịu nhận
tội hủ hóa khi mình không có tội. Cũng ngày hôm đó, lệnh ngừng bắn hết hiệu
lực, máy bay lại ném bom trên cung đường đại đội chúng tôi phụ trách. Kẻng báo
động vang lên, mặc dầu chúng tôi có thể ở nhà theo lệnh chỉ huy, chị em chúng
tôi vẫn xách xẻng cuốc lao ra mặt đường theo phản xạ thường trực lâu nay của
người thanh niên xung phong khi có tiếng bom rơi trên mặt đường, nếu không hành
động như thế, nó làm cho chị em tôi thấy khổ tâm hơn cả bị buộc tội hủ hóa. Đại
đội trưởng trông thấy chúng tôi, ông nói: “Vậy là xứng đáng! Nhưng về phải kiểm
điểm thành thật hơn nữa”.
Tôi buồn, chị ít nói
hơn. Những lần đi rà phá bom tôi thường xung phong trước các đồng đội để vơi
bớt day dứt trong lòng. Tôi không còn cảm giác với cái chết nữa. Tôi cũng không
biết đã mấy lần tôi đi vào chỗ hiểm nguy mà không bị thương tích. Nhưng lần sau
này thì tôi bị. Hôm đó máy bay Mỹ ném bom xuống ngầm 2 (ngầm là một con suối
lớn băng qua đường, chúng tôi lấp đá xuống cho xe đi qua thay cầu) đoạn đường
chúng tôi phụ trách, có một quả bom chưa nổ, chui xuống sâu chỉ còn lòi chút
cánh đuôi, chưa xác định là loại bom gì, mà trời đã về chiều, tối nay lại có
đoàn xe chở quân đi qua, bằng giá nào loại bom gì cũng phải thông đường trước
khi trời tối. Thường thì có ba loại bom chưa nổ: bom lép, loại này không gây
nguy hiểm, chỉ cần đào lên tháo ngòi nổ là bom chết, loại bom hẹn giờ thì không
biết khi nào nó phát nổ, bom từ trường có xung động mạnh hay có kim loại lướt
qua là nó phát nổ. Hai loại sau rất nguy hiểm. Chỉ có dũng cảm và hy sinh mới
phá được nó. Tôi xung phong. Thời gian quá gấp, đại đội không kịp lập bàn thờ
truy điệu sống cho tôi mà chỉ có đồng đội đứng một hàng cúi đầu đưa tiễn tôi.
Đại đội trưởng nói với tôi: Tổ quốc ghi công đồng chí! Tôi ôm gói thuốc nổ đi
đến quả bom để tìm cách phá hủy. Thật không may, đó là một quả bom hẹn giờ. Chỉ
còn chừng mươi bước chân thì quả bom phát nổ. Gói thuốc nổ văng xa, tôi bị đất
đá vùi kín cả người. Những khi đi phá bom chưa nổ thường đồng đội theo sau, ẩn
nấp trong hầm cách nơi quả bom chừng trăm mét để kịp thời cấp cứu và san lấp
đường. Lúc bom nổ họ lao tới. Đại đội trưởng của tôi có mặt. Ông là người đầu
tiên đào bới đưa tôi ra khỏi đống đất đá. Ông cúi xuống hút bụi đất trong mồm
trong mũi tôi. Tôi bị thương rất nặng, chân phải dập xương, thủng ổ bụng, ngực
đầu tím bầm, có lúc không nhận biết điều gì nhưng tôi vẫn còn sống. Bốn người
khiêng tôi về trạm xá tiền phương. Nhiều người trong đơn vị chạy đến lấp hố
bom, tôi nghe tiếng chị Thanh vang bên tai tôi: Sơn! Đừng chết!
Tôi được chuyển đến
một quân y viện của Đoàn 559. Tôi lại được chuyển tiếp đến một bệnh viện lớn
hơn để ở đấy khâu lại ruột, phẫu thuật sắp xếp những mảnh xương vỡ ở chân, điều
trị những phần phổi bị tổn thương. Thời gian chịu đựng đau đớn của các vết
thương, các cuộc phẫu thuật liên tiếp tôi luôn nhớ tới tiếng vọng của chị: “Sơn
ơi, đừng chết” và nụ hôn đầy nước mắt của hai chị em tôi. Nhiều khi trong mơ
tôi hốt hoảng thét lên: nằm xuống… Thanh… Thanh… vì một quả bom đang lao về
phía chị. Bạn thương binh hỏi tôi ai trong mơ vậy? Tôi đáp: Đồng đội - chị
mình. Tôi cầu mong bom đạn đừng tìm đến chị. Một năm sau, tôi lành hẳn các vết
thương, được đi an dưỡng một thời gian nữa cho bình phục hoàn toàn. Tôi được
trên cho đi học Đại học khoa Cầu đường. Tôi rất mừng vì ước mong được bước chân
vào trường đại học nay đã đến với tôi mà trước đây có dính líu bên ngoại nên
không được gọi (thời ấy ở miền Bắc học xong lớp Mười - cấp III, xét lý lịch tốt
là được gọi, chỉ định vào các trường đại học, được bao cấp ăn học, chứ không
thi tuyển như sau này). Hơn nữa, chuyện cầu đường đã gắn bó với tôi nhiều kỷ niệm
nên làm cho tôi toại nguyện vô cùng. Ba năm sau Hòa bình thống nhất đất nước
tôi ra trường. Trong thời gian học, tôi có biên thư về cho cậu tôi hỏi tin tức
chị Thanh. Cậu tôi cho tôi biết sau năm Bảy lăm đơn vị thanh niên xung phong ấy
giải tán, người chuyển qua đội cầu đường của Ty giao thông, người đi nơi này
nơi nọ, chị xin về với mẹ cho có mẹ có con, chị tiếp tục làm nghề thợ may. Có
một anh bộ đội, rồi một anh cán bộ thương nghiệp vợ chết để ý đến chị, khi nghe
nói trong thời chiến chị có quan hệ nam nữ lăng nhăng nên họ đều ngại. Còn
thanh niên lối xóm không ai nhăm nhe gì đến chị cũng vì chuyện đó. Ngay cả cậu
tôi qua thư từ cậu tôi cũng hiểu nhầm, muốn tôi không thân thiết với chị. Thất
vọng ê chề, chán chường cho thân phận khi không tìm thấy một người đàn ông nào
cho mình nữa, rồi mẹ qua đời vì bệnh, chị lầm lũi lẻ loi trong một ngôi nhà
tranh nhỏ, quên đi chuyện chồng con. Bấy giờ chị đã ba mươi lăm tuổi. Bức thư
như xé nát lòng tôi. Có hôm tôi không nhớ bài giảng. Chuyện không thật của quá
khứ tưởng quên đi nào ngờ nó đeo bám chị một cách oan uổng. Chao ôi, ai minh
oan cho chị đây, mà minh oan điều gì mới được chứ? Đau đớn cho chị quá! Tôi ân
hận, tự oán trách chỉ vì sự ích kỷ, hèn nhát của tôi mà gây cho chị, một cô gái
đẹp sẽ có một người chồng xứng đáng lại ra nông nỗi này. Chị ơi, tôi thầm kêu
lên trong chiến tranh cái chết trong gang tay chị khuyên em hy vọng và chị đứng
vững, thế mà không còn giặc giã nữa chị lại buông xuôi tìm kiếm hạnh phúc cho
mình. Nguyên nhân chỉ tại tôi mà ra. Thật khổ tâm cho tôi bởi vì không có cách
gì sửa chữa, giúp ích được cho chị. Quên đi thì thôi, chứ nhớ lại nhói đau
trong lòng.
Tôi đang chuẩn bị về
thăm quê trước khi nhận việc thì bất ngờ Bộ Quốc phòng yêu cầu tôi cấp tốc vào
nhận công tác cầu đường ở phía Nam để cho xe tăng hạng nặng cơ động truy quyét
bọn Khơme đỏ lấn chiếm biên giới. Đó là năm 1978. Ba năm sau tôi hoàn thành
nhiệm vụ. Tôi trở về quê nhà. Không có gì thôi thúc tôi lúc này là phải đi tìm
cho được chị, để xin chị một lời tha thứ, điều mà qua thư của cậu tôi cứ dày vò
trong tim tôi đến giấc ngủ cũng thấy mình mắc nợ, không yên lòng. Gặp chị, đã
thấy vết nhăn hằn lên đuôi mắt chị, chị không buồn nhưng gương mặt se se lành
lạnh an phận càng làm cho tôi xót xa trong lòng, tôi run run thốt lên: “Chị
Thanh!” Bất ngờ, thấy tôi chị buông cả kim chỉ máy khâu reo lên: “Ôi! Em Sơn!
Lâu nay em ở đâu? Em tôi đã về! Mừng quá!”. Chị khóc. Tôi cũng rưng rưng nước
mắt. Hồi lâu chị nói: “Cậu em có đến thăm chị nhưng ông bảo không biết địa chỉ
của em. Dạo đó em bị thương quá nặng, chị ngỡ em đã chết mà người ta chưa báo
tin”. Tôi kể những gì mấy năm sau khi bị thương. Chị nói: ‘Em giỏi quá! Một kỹ
sư, em của chị. Vậy em đã có vợ chưa?”. Tôi đáp: “Chưa!” Chị lại tiếp: “Em ba
lăm ba sáu rồi đấy. Ở đây có một cô xinh lắm mới hai bốn, chị làm mối cho rồi
sinh con, trước chị giúp một tay, sau chị có cháu để bồng. Vậy là thỏa mãn, chị
không mong gì hơn”. Ôi người chị của tôi! Tôi không biết nói gì trước tấm lòng
của chị lúc nào cũng bao dung, lúc nào cũng chỉ vì niềm vui hạnh phúc cho tôi.
Tôi dạ, nét mặt chị hớn hở hẳn như chị chưa bao giờ có an phận lạnh giá làm cho
tôi vơi bớt dày vò trong lòng. Tôi lưỡng lự nói: “Vì một phút nông nổi của em
trước đây để sau này chị cam chịu thiệt thòi về hạnh phúc lứa đôi, thật em có lỗi
với chị”. Chị nói: “Chị không nghĩ như thế. Cái chết kề bên mà cho nhau chút
tình người trong sáng thì đáng trọng sao gọi là lỗi? Giá hồi ấy chị từ chối, em
hi sinh thì chị sẽ là người đau khổ ân hận nhất. Em không có lỗi, chị không có
lỗi. Lỗi là lỗi ở đâu kia! Nhưng bây giờ chị không để bụng nữa”.
Theo địa chỉ chị cho,
tôi tìm đến Ty Giao thông để thăm người chỉ huy đại đội trưởng của tôi trong
thời chiến tranh. Bây giờ ông là Phó trưởng ty của Ty giao thông tỉnh. Tôi đến
gặp ông. Trên bàn làm việc ông đang chăm chú vào bản thiết kế một chiếc cầu.
Tôi chào thủ trưởng. Ngẩng lên ông nhận ra tôi ngay, ông nói: “Sơn đấy à! Lâu
nay tôi chỉ biết cậu đến một bệnh viện lớn để chữa vết thương, được xuất viện,
sau đó đi đến đâu nữa thì tôi không được tin tức gì. Vậy cậu đang làm gì và ở
đâu tới đây?”. Tôi đáp: “Thưa thủ trưởng, em mới ở Campuchia về! Em tốt nghiệp ngành
Cầu đường thì được điều động vào biên giới Tây Nam phục vụ cho chiến dịch đánh
đuổi bọn Khơ me đỏ. Em ngỡ cả chục năm qua đại đội trưởng quên chiến sĩ của
mình rồi”. Ông đáp: “Cậu chỉ nói bậy! Đứa nào sống đứa nào chết, hài cốt nằm
nơi đâu mình nhớ cả, nhớ cả ưu điểm khuyết điểm của từng đứa nữa kia!” Thấy thủ
trưởng cởi mở, khác thời chiến tranh nghiêm nghị khắc khổ, tôi nói: “Thế thủ
trưởng nhớ đến em điều gì nhất?”. Chợt ông không vui, giọng trầm lại: “Mình
biết cậu với cô Thanh không đến nổi quá đà như thế. Những ngày tháng ấy bom đạn
ác liệt quá, tuần nào tháng nào cũng có thương vong, mình làm dữ như vậy là để
răn đe bởi cái chết luôn rình rập họ thì trai với gái tiếc gì mà không cho nhau
những nếm trải của ái ân trước khi chết! Mình sợ điều ấy bung ra làm nhụt chí
chiến đấu của đơn vị. Bây giờ nghĩ lại thấy xót xa ân hận quá! Mình đã đến xin
lỗi cô Thanh rồi. Mình đang làm hồ sơ cho Thanh cùng một số đội viên khác có
thành tích dũng cảm trong chiến đấu để đưa lên trên xét tặng thưởng Huân chương
và một số chế độ khác”. Tôi nói: “Thời ấy chẳng qua là vì chiến tranh mà thôi,
thủ trưởng đừng để tâm đến những chuyện vặt ấy làm gì nữa”. Ông gật đầu, nói:
“Chiến tranh dễ đẩy con người ta vào trạng thái không bình thường!”. Ông chuyển
bản vẽ chiếc cầu về phía tôi, ông nói: “Đợi duyệt lần cuối, cậu xem qua cho
biết và bây giờ cậu đi với tôi ra thực địa”.
Chiếc xe Commangca
trần vải bạt lao đi trên con đường mới được rải sỏi, đôi bên đường màu xanh của
cây cối cũng chưa được là bao nhiêu, phía lưng đồi còn nhiều hố bom nham nhở
làm tôi xúc động nhớ đến mười ba đứa trong đại đội ngã xuống khi chúng tôi bảo
vệ con đường này. Đại đội trưởng thấy tôi đăm đắm buồn nhìn con đường, ông hỏi:
“Cậu nghĩ gì mà không vui vậy?”. Tôi đáp: “Em nhớ chúng nó không về nữa”. Ông
tiếp: “Mỗi lần đi trên đoạn đường này mình không quên được thời ấy. Có thể khi
làm cầu mình cho dựng một tấm bia ghi tên những chiến sĩ đã hi sinh của đại đội
bảo vệ con đường này trong chiến tranh”. Tôi nói: “Em có đóng góp được gì đây
với thủ trưởng?” Ông nói: “Có đấy”. Chừng mươi cây số thì xe dừng lại trên con
đường có dòng suối chảy qua. Xuống xe, ông hăm hở đi tới mép đường gần con
suối, ông nói: “Cậu còn nhớ ở đây là đâu không?”. Tôi đáp: “Đây là ngầm 2, nơi
em bị bom vùi mươi năm về trước và được thủ trưởng cứu sống”. “Ừ! Rồi sẽ không
đi ngầm với đá lổm ngổm xe vất vả bò qua mà một chiếc cầu vĩnh cửu, cho một con
đường rộng. Gặp cậu, mình nghĩ điều này: Để gắn bó một thời và ghi dấu ấn trong
đời những người làm cầu đường, cậu về đây giúp mình thi công chiếc cầu này”.
Thú thực tôi chưa bao giờ gặp được nhiều niềm vui như mấy ngày về quê, tôi nói
với thủ trưởng: “Được thế thì em mừng lắm! Em cảm ơn thủ trưởng! Em ra xin phép
Bộ rồi em vào ngay”.
T.T.H