Thứ 6 - 26/02/2016
Màu đỏ Màu xanh nước biển Màu vàng Màu xanh lá cây
Chào mừng kỷ niệm 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025)
Chào mừng Đại hội Hội Văn học Nghệ thuật Đồng Nai lần thứ VII (nhiệm kỳ 2025 - 2030)
“Rực rỡ sắc mai vàng, mừng Đảng, mừng Xuân, mừng Đất nước vươn cao tầm đổi mới; Thắm tươi màu cờ đỏ, chúc Đoàn, chúc Hội, chúc Đồng Nai nỗ lực để thành công" (Dương Thanh)
LIÊN VĂN BẢN TẠO ĐỘ NHÒE THỰC ẢO TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ

Lương Xuân Tuyến

(Nguồn: VNĐN số 14 – tháng 07 & 08 năm 2016)

 

Từ trong tiềm năng thể loại, tiểu thuyết là một thể loại tự do, có khả năng tổng hợp, dung nạp những phong cách nghệ thuật của các văn bản thể loại khác. Đây chính là cơ sở của sự liên văn bản về thể loại, giữa văn bản tiểu thuyết và văn bản các thể loại, các loại hình nghệ thuật và phi nghệ thuật, chính thống và không chính thống ra đời.

Theo Roland Barthes, liên văn bản là một trong những đặc điểm nổi bật của tiểu thuyết hiện đại. “Một mặt liên văn bản được hiểu như một thủ pháp văn học xác định. Mặt khác, liên văn bản còn được hiểu như là thuộc tính bản thể của mọi văn bản”.

Sự làm mới cách thức thể hiện trong tiểu thuyết thì hiện tượng liên văn bản xuất hiện một cách thường xuyên ở nhiều cấp độ và dạng thức khác nhau tạo nên kiểu kết cấu truyện lồng truyện. Hình thức văn bản trong văn bản góp phần tạo nên những tiếng nói khác nhau, mở rộng trường nhìn, đa dạng hóa cấu trúc của tiểu thuyết. Với hình thức này, tác phẩm sẽ tạo nên sự liên thông giữa thế giới thực và thế giới ảo (Đi tìm nhân vật, Thoạt kỳ thủy...) và nhân vật trong tiểu thuyết sẽ “được sống lập thể” ở nhiều thế giới khác nhau, nhập nhiều vai khác nhau, các giới hạn không gian, thời gian do vậy được mở ra đến vô hạn.

Kể từ sau đổi mới, nhất là trong những năm gần đây, việc đổi mới tư duy tiểu thuyết ở các nhà văn đã dẫn đến những cách tân quan trọng trên cả phương diện nội dung và hình thức (mà đặc biệt là hình thức), ở quan niệm về chất liệu, làm mới ngôn ngữ tiểu thuyết hướng tới tính hiện đại, thậm chí hậu hiện đại của văn học thế giới như: Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Thuận… Trong đó tác phẩm Mười lẻ một đêm của Hồ Anh Thái được viết bởi cấu trúc lập thể, bởi giọng điệu giễu nhại của người kể chuyện “mặt nạ tác giả”, nhờ đó nhận diện rõ nét chân dung con người hiện đại với đầy đủ các thành phần xã hội, va chạm, bổ sung cho nhau, làm bật lên cả một tấn trò đời. Hoặc “Đức Phật, nàng Savitri đã thể hiện rõ nhấtở tính chất liên văn bản với sự đan cài của nhiều lớp diễn ngôn (các lớp diễn ngôn lịch sử, văn hóa, các lớp diễn ngôn chính luận triết lí, diễn ngôn thông tục thế sự, diễn ngôn tôn giáo, triết học, huyền thoại…).

Cũng như các thế hệ đi trước, trong tất cả các cuốn tiểu thuyết của mình, Nguyễn Đình Tú luôn tìm tòi đổi mới về mặt hình thức, với nhiều thể loại được dán cắt, “ôm chứa” vào lòng nó nhiều văn bản như: lời bài hát, câu chuyện, nhật ký, bức thư, trích báo, blog, entry… mang nhiều tiếng nói khác nhau. Bằng cách này, nhà văn có thể linh hoạt hóa cách viết, biến cái không thể thành cái có thể và ngược lại, góp phần làm mới cho văn chương. Nó minh chứng cho thời đại con người đang hoang mang, cô đơn, bất an trước cuộc sống. Tuy nhiên các hình thức này chỉ xuất hiện với liều lượng vừa đủ, tạo được chất liệu mới của tiểu thuyết, lạ nhưng không quá mức cảm thụ của bạn đọc.

Nháp, hình thức liên văn bản được Nguyễn Đình Tú sử dụng bằng cách để nhân vật của mình sử dụng các entry để post những cảm xúc của mình lên blog. Với hình thức này, Nguyễn Đình Tú đã để cho nhân vật Thạch tự do bộc lộ nỗi lòng của mình, cả những trăn trở suy tư, những nếm trải từng ngày trong cuộc sống. Qua đó, người đọc hiểu hơn về những giằng xé nội tâm, tính cách cũng như cuộc đời của nhân vật.

Với Kín, bạn đọc sẽ gặp nhiều trang viết về đạo Mẫu, về lên đồng, chầu văn… trong Kín, Nguyễn Đình Tú đã "bồi đắp" rất nhiều những tư liệu về "Mẫu", về lịch sử khởi nghĩa Bãi Sậy (diễn ra từ năm 1883 đến năm 1892)... Cả một đống tư liệu có được từ những công trình nghiên cứu tín ngưỡng dân gian, lịch sử, từ những câu chuyện tâm linh đó đây được đưa vào Kín. Sự tìm về những giá trị văn hóa trầm tích, khát vọng thay đổi cái tôi suy đồi, mặc cảm lạc loài cùng sự đánh tráo bản ngã... được lồng ghép dưới nhiều lớp mã bí ẩn. Theo Nguyễn Đình Tú đó không phải là những chiêu hỏa mù, đó là đời sống được tái tạo dưới góc độ nghệ thuật tiểu thuyết mà nói như nhà văn Nguyễn Bình Phương: “Gấp cuốn sách lại, nhận thấy chỉ có tình thương là không bị chối từ bởi tình thương vốn rất hiếm hoi trong thời này”. Qua Kín, Nguyễn Đình Tú muốn giải mã, khái quát, mổ xẻ cái lõi của mỗi cá nhân người Việt, tâm hồn Việt. Trong văn hóa dân gian có đạo thờ Mẫu có độ dài về thời gian, tồn tại qua nhiều thời đại khác nhau. Đạo Mẫu giống thứ trầm tích nằm trong lòng một dân tộc, một tộc người. Trong đó lên đồng là một sản phẩm của văn hóa dân gian. Giới trẻ hiện nay cũng có những vấn đề của thời đại, của thế hệ mình. Sự lạc lối chăng? Sự mất niềm tin chăng? Sự hoang mang nghi hoặc chăng? Trong lúc người ta cần giải tỏa thì họ tìm đến văn hóa dân gian để thỏa mãn, nó có xấu không, mang lại gì cho xã hội không thì bản thân nhà văn không kết luận mà chỉ mượn những điều đó làm bối cảnh tiểu thuyết để xây dựng nhân vật của mình.

Nhận xét về cuốn tiểu thuyết Hoang tâm, nhà văn Triệu Xuân cho rằng những đoạn viết về chiến tranh trong Hoang tâm chỉ là những ký sự nghe người ta kể và được khéo léo chép lại mà thôi. Song, ông nhận định: “Nguyễn Đình Tú mượn chiến tranh như cái mắc áo để treo vào đó thông điệp của mình gửi bạn đọc… Đó là nhân tính, tình người, khát khao sống bản năng, khát khao truyền giống, khát khao làm đẹp và hướng thiện”.

Cái thú vị và độc đáo nhất trong Hoang Tâm có lẽ nằm ở cách giải quyết những vấn đề liên quan đến những “chấn thương trong tâm hồn” của những người lính trở về từ những chiến trường K năm xưa. Chiến tranh qua đi, để rồi những ngày sống trong ký ức của nhân vật Anh về cuộc chiến trường cứ trở đi trở lại trong tiểu thuyết và từ đó chúng ta thấy một cuộc chiến tranh với ngổn ngang những chi tiết bủa vây. Không chỉ là những cuộc chạm súng, chết chóc, máu me, mà còn có yêu thương, hẹn hò, những ngày sống vô tư ngay trong lúc lửa đạn chiến tranh cận kề. Sự lãng mạn tạo nên niềm tin lạc quan của người lính và cũng giúp tăng thêm sức mạnh khi đối chọi với địch. Đó là những câu chuyện về bông hoa Lòng Hào, cuốn nhật ký của người lính ở phía bên kia, những tâm sự, câu chuyện kể của Anh với đồng đội vào giờ nghỉ ngơi. Từ đó mới có lời bài hát: “Ơi bông hoa Lòng Hào, vương bụi máu chiến binh. Ơi bông hoa Lòng Hào, gọi hoàng hôn viễn xứ. Ơi bông hoa Lòng Hào, nơi đồng hoang sương gió…”. Chiến tranh ở đây không chỉ có hoa mà còn  những trang nhật ký, những câu thơ: “Trong ba lô lính có gì. Poncho, gạo sấy, xuân thì, giấc mơ. Người đi. Kẻ ở. Đôi bờ. Sông sâu núi thẳm, bây giờ trăm năm…”. Chiến tranh đã lấy đi tất cả, những người lính phải hy sinh tuổi xuân của mình, họ ra đi để lại sau lưng với những gì còn dang dở, mang theo cả nỗi nhớ người thân vào chiến trường ác liệt, biết bao cảnh chia ly ngậm ngùi chua xót “Nếu anh ra đi. Mẹ già anh khóc. Trai thời loạn li. Thương con khó nhọc. Nếu anh ra đi. Người vị hôn thê. Những giọt nước mắt. Đọng trên hàng mi…”. Bên cạnh thơ còn có những ca khúc cũng bi lụy đến nao lòng  người “Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại? Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về. Anh trở về chiều hoang trốn nắng, poncho buồn liệm kín hồn anh. Anh trở về bờ tóc em xanh, chít khăn xô lên đầu vội vã…”. Chiến tranh kết thúc, nhân vật Anh tiếp tục với nghề dạy học. Và cũng từ đây độ mở của cuốn tiểu thuyết lại được rộng hơn bởi bài văn lạ của cậu học sinh lớp 10, viết về Mị Châu, Trọng Thủy bằng thứ ngôn ngữ teen với trình độ học sinh lười học văn bây giờ, khiến cả hội đồng chấm thi cười nghiêng cười ngả.

Tóm lại, Nguyễn Đình Tú đã rất thành công khi sử dụng liên văn bản. Đây là kỹ thuật ghép nối thể loại, mọi tình tiết ở nhiều thời điểm đan cài nhau, có vẻ rối, tưởng như không ăn nhập gì, nhưng lại là cầu nối liên kết tạo sự liền mạch của tác phẩm, không cho bất cứ chi tiết nào được tách rời ra, đồng thời nó tạo ra sự mờ nhòe thực ảo, kích thích khả năng liên tưởng độc đáo ở người đọc. Qua tính chất liên văn bản, giúp cho nhà văn có nhiều hình thức lựa chọn để bộc lộ tư tưởng và thể hiện được những khoảng trắng thẩm mỹ cần thiết tạo nên tính chất đa thanh cho tác phẩm, góp phần khẳng định phong cách của nhà văn.

L.X.T

Các tin khác

    There are no items to show in this view.
Object reference not set to an instance of an object.

Liên kết webiste

Thăm dò ý kiến

Đánh giá về trang thông tin điện tử Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đồng Nai

 

Số lượt truy cập

Trong ngày:
Tất cả:

HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT ĐỒNG NAI
Địa chỉ: 30 Đường Nguyễn Ái Quốc, P.Tân Tiến, Thành phố Biên Hoà, Đồng Nai
Điện thoại : 02513.822.992; Email: hvhnt@dongnai.gov.vn
Chịu trách nhiệm xuất bản: NSND. Đạo diễn Giang Mạnh Hà – Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đồng Nai.
Trưởng Ban biên tập: Trần Thu Hằng​​