Truyện ký của Nguyễn Quang Tấn
(Nguồn: VNĐN số 14 – tháng 07
& 08 năm 2016)
Ánh trăng hạ tuần khuất sau dãy núi phía
tây. Màn sương mỏng mờ mờ bao phủ núi rừng bản làng, dòng sông. Gió hiu hiu
thổi. Trời se se lạnh. Một chiếc bóng cao cao, mờ mờ, đi đi, lại lại dọc theo
bờ sông Tang rồi dừng lại bên phiến đá lớn dưới gốc cây xà cừ gốc to sù sì. Tiếng
tắc kè điểm nhịp đều đều ở bên kia sông vọng sang. Bản làng người Kor gần đấy mấy
con gà trống thi nhau gáy. Đàn chim kêu ríu rít báo thức náo nhiệt cả một góc
rừng. Lê Mỹ lững thững đi về phía lán trại. Vẻ mặt anh trầm tư như đang nghĩ
ngợi...
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Ô! Anh Lê Mỹ. Gần sáng em tỉnh giấc
không thấy anh trên võng. Vậy anh đi đâu bây giờ mới về?
- Đêm qua không ngủ được, mình dậy
sớm ra chỗ dự kiến đặt trạm thủy điện xem lại...
***
Lê Mỹ là kỹ sư. Tốt nghiệp
đại học bách khoa khóa 3, anh tình nguyện về công tác tại quê nhà Quảng Ngãi - nơi
anh cất tiếng khóc chào đời. Anh đã ở chiến trường tám năm, hiện là trưởng ban kỹ
thuật phòng Quân giới, Cục Hậu cần, Quân khu 5. Lê Mỹ được Cục trưởng giao
nhiệm vụ nghiên cứu thiết kế trạm thuỷ điện cho xưởng quân Giới C36 và C38. Người
cùng tham gia với anh là Tấn Quang, kỹ sư chế tạo máy khoá 10 Bách Khoa.
Chiều hôm ấy, tôi và anh Lê
Mỹ đi công tác trên con đường mà công binh san ủi sắp hoàn thành để chuẩn
bị cho chiến dịch đánh Cấm Dơi - Quế Sơn 8/1972. Đường sỏi đá gồ ghề, lởm chởm,
bụi mù, nhiều đoạn dốc cheo leo, ngoằn ngoèo, lượn theo bờ sông Tranh. Nắng như
thiêu đốt. Lau lách chết trơ trụi. Thương cho những đàn bướm đủ màu sắc đang
thi nhau dang rộng cánh quạt dưới ngầm suối khô. Chúng tôi nghỉ lại bên bờ suối
để lấy sức leo dốc. Ba lô chỉ có hai bộ quần áo, võng, tăng, lương thực đủ ăn
hai ngày, ngoài ra còn thêm khẩu súng ngắn K54. Có vậy mà cảm thấy quá nặng, chỉ
muốn vứt bớt đi vì đã thấm mệt, đường lại xa toàn đèo núi. Ngồi trên đỉnh dốc
là một tiểu đội lính, già có, trẻ có, ai nấy mồ hôi nhễ nhại, xoay trần ra thở
dốc. Đi lại gần, tôi mới biết mỗi người cõng 40 lít dầu diezel chạy máy cho
xưởng Quân Giới C38 Quân Khu. Trong số ấy, có anh thợ tiện tên Thành, thấy
chúng tôi anh reo lên "A kỹ sư Lê Mỹ, bao giờ anh thiết kế trạm thuỷ điện
cho xưởng? Bọn em vô cùng vất vả gùi dầu ở vùng giáp ranh phải vượt 30 cây số
đường rừng, đèo dốc, sông suối, mưa dầm nắng gắt... mong anh quá anh ạ”. Nhìn
Thành gầy nhom, xanh xao vàng vọt do sốt rét nhiều bị thiếu máu mà phải gùi hơn
40 kg, lòng tôi se lại. Anh Lê Mỹ ôm Thành, siết chặt vai ...
Tối hôm ấy, đã khuya mà tôi không
chợp mắt được, cứ lởn vởn hình ảnh tiểu đội lính và thợ mà buổi chiều gặp trên
đỉnh dốc... Xưởng máy đang cần điện. Chiến trường đang cần vũ khí để bộ đội
chiến đấu. Tôi tự nhủ, bằng bất cứ giá nào cũng phải hoàn thành nhiệm vụ Cục
giao. Không ai bảo ai, hai chúng tôi đều dậy thắp đèn ngồi vẽ, lúc ấy gà vừa gáy
canh ba.
Như thường lệ, 4 giờ sáng Cục
trưởng dậy đi bách bộ quanh đơn vị. Sáng nay ông đứng bên cửa sổ hồi lâu, ngắm
bọn tôi đang hý hoáy vẽ rồi lững thững đi vào đứng bên cạnh tôi. Lê Mỹ lễ phép
đứng dậy "Chào Cục trưởng".
- Các cháu dậy làm việc sớm quá. Trách
nhiệm và chăm chỉ là tốt, song cũng phải có phương pháp và biết giữ gìn sức khoẻ.
"Con mèo hen này" liệu trụ được bao nhiêu năm?
Ông vỗ nhẹ vào vai tôi với tình cảm
thương yêu của bậc cha chú rồi chậm rãi nói tiếp:
- Các cháu nên xuống thực địa khảo sát,
tư duy rồi hãy vẽ. Chắc chắn trực quan sinh động sẽ giúp tránh được nhiều sai
sót. Hơn nữa, thời gian gấp lắm rồi. Chú đã hứa với tư lệnh sẽ hoàn thành
công tình trạm thuỷ điện trước mùa mưa. Như vậy chỉ còn ba tháng. Thường
vụ đã quyết định: Lê Mỹ giai đoạn đầu khoảng một tháng cùng với xưởng
trưởng tổ chức triển khai lên kế hoạch thực thi. Sau đó rút về cơ quan. Trình
Sen xuống theo dõi. Tổng chỉ huy lúc này là Văn Thuần xưởng trưởng. Còn "Con
mèo hen" 9 giờ lên phòng Chính trị nhận quyết định chức Trưởng ban kỹ
thuật C36...
***
Hai anh em tôi cứ dọc theo bờ sông mà
bước, bất chấp đoạn đường lởm chởm, thác ghềnh. Chúng tôi khảo sát thực địa
Sông Tang, đoạn thuộc huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi để có cơ sở đánh giá lưu
lượng dòng chảy. Một ngày trèo đèo lội suối, nhá nhem tối mới đến được C36. Đêm
hôm ấy, hai chúng tôi ngủ như chết, mãi đến tám giờ sáng hôm sau mới dậy, đúng vào
lúc chứng kiến cảnh đau lòng. Anh em dìu Kim Chi bị thương ở tay phải về xưởng (Lúc
8 giờ đêm qua khi anh em đang gùi dầu máy vượt qua ngã ba căn cứ Giáo Vụt gặp
địch phục kích...). Quân y đơn vị sơ cứu, rồi nhanh chóng cáng Kim Chi đi
viện. Chi bị thương, cả đơn vị xôn xao. Tôi cũng mủi lòng vì hoàn cảnh Chi
cũng tương tự mình. Anh Mỹ đứng thừ người ra, không nói không rằng, lấy
khăn chấm nước mắt. Lại một lần nữa, áp
lực phải hoàn thành công trình trạm thuỷ điện càng sớm càng tốt để
đồng đội khỏi đổ máu như cảnh tượng sáng nay mắt thấy, tai nghe đè nặng lên
chúng tôi.
Đảng Uỷ Cục họp khẩn cấp. Anh Mỹ
phổ biến chỉ thị của Cục trưởng. Riêng tôi là "nhân sỹ" nên không
được tham dự. Nghĩ mà buồn! Tủi thân quá! Anh Lê Mỹ và các anh trong ban chỉ
huy xưởng cũng cảm thông với tâm trạng của tôi lúc bấy giờ. Suốt đêm tôi không
ngủ được, tự hỏi tại sao mình phấn đấu như thế mà không được tin cậy? Chả
lẽ chỉ vì mình vướng lý lịch có ông chú ruột bị tình nghi theo địch, bị cách
mạng trừ khử lần cuối năm 1953. Ờ thì cứ cho là chú tôi theo địch, nhưng ông
chú ấy tôi chưa một lần biết mặt. Càng nghĩ càng đau lòng. Ngoài trời tiếng dế
vẫn nỉ non. Gió thổi xào xạc trong mấy khóm lau lách ở đầu nhà. Ngoài sân
vài chiếc lá bàng khô khẽ khàng rơi xuống. Không gian yên tĩnh. Mọi âm thanh
đều dội vào đầu óc tôi. Bất giác, tôi ôm mặt khóc. Đây là lần thứ hai tôi rơi
nước mắt kể từ khi vào chiến trường. Lần đầu là khi tôi chứng kiến anh bạn đồng
hương đang ngủ trên võng bên cạnh tôi bỗng bị núi lở chôn vùi trong lúc mưa giông
như trút nước... Ngồi viết điếu văn cho anh mà nước mắt tôi giàn giụa ướt nhòa
trang giấy. Đó là dấu ấn không bao giờ phai trong tâm hồn tôi những năm đầu thử
thách tại chiến trường Khu 5.
Anh Lê Mỹ và tôi mấy hôm nay cứ
trăn trở suy tư về việc chọn điểm đặt trạm thuỷ điện. Về cảm tính thì vị
trí ấy là tương đối lý tưởng, bởi dòng nước chảy khá mạnh, độ cao cột nước
dẫn vào tuabin cho phép, hơn nữa dòng sông thắt lại còn rộng10m, nên đắp đập
tràn cũng không tốn nhiều công sức. Điều mà tôi ưng ý nhất là có một dải đá vừa
ngầm vừa mấp mô nhô lên chạy suốt chiều ngang dòng sông, tạo ra thế vững chắc
cho con đập vào mùa mưa lũ. Nhưng liệu mùa khô có đủ công suất không? Vì vậy
phải tính toán thật cẩn thận. Đêm qua Lê Mỹ không ngủ. Anh một mình ngồi trầm
tư với ngọn đèn dầu không bóng mờ mờ... Tôi nằm trên võng vờ ngủ, thực tình tôi
cũng đang trong tâm trạng như tâm trạng của anh... Tôi mong cho trời mau sáng
để khảo sát lại thực địa.
- Tấn Quang này, cậu có nhớ công
suất dòng chảy tính như thế nào không? Nghe nói khóa 10 thời gian đào tạo 5 năm
được trang bị thêm phần thủy lực học.
- Vào chiến trường, sốt rét triền miên,
chữ thầy trả hết cho thầy rồi anh ạ.
Nói vậy thôi, tôi vẫn còn nhớ những nội
dung cơ bản. Vì thời đi học, tôi thi môn này được 4 theo thang điểm 5 của Liên
Xô.
- Anh ạ, công suất dòng chảy bằng
lưu lượng nước nhân với độ cao cột nước, nhân với gia tốc trọng trường, rồi
nhân tiếp với hệ số công suất. Lưu lượng dòng chảy là lượng nước chảy trong một
đơn vị thời gian qua tiết diện cắt ngang dòng sông. Tôi đang "nổ" thì
Lê Mỹ cắt ngang:
- Thôi tao hiểu rồi.
Anh tư duy một lát rồi nói tiếp
"Tổng quát công suất là: P= 0.3 * 9.81 * V * S * h. Những đại lượng này
hoàn toàn đo được. Còn hệ số công suất lấy khiêm tốn là 0,3 vì tổn hao
nhiều".
Tôi biết mà, anh Mỹ trước đây học
giỏi có tiếng ở khóa ba. Anh hỏi tôi chẳng qua có ý lường khả năng của "đội
bạn" để dễ bề thống nhất cách tính toán.
Anh Mỹ quần đùi rộng thùng thình, chân
ống đồng, đầu gối củ lạc, ba mươi sáu dẻ xương sườn phô ra, lêu nghêu lội
trước. Còn tôi thân hình cũng đồng dạng, lội bì bõm phía sau. Chúng tôi đo độ
sâu của dòng nước bằng phương pháp chia đều chiều ngang dòng sông thành10 phần
bằng nhau, rồi lấy trung bình cộng độ sâu, từ đó suy ra diện tích tiết diện cắt
ngang dòng chảy. Đến đoạn giữa sông, bỗng anh kêu lên” "Con rắn to lắm mày
ơi! Nó nằm dưới chân .Đuôi nó quấn vào chân tao". Vừa nói anh vừa thở hổn
hển, dùng hết sức ấn đầu con rắn xuống. Nó ở cái thế mắc kẹt vào khe đá nên
không quay đầu lại cắn được. Cứ như thế chân anh Mỹ cũng bị kẹt giữa khe đá. Khoảng
20 phút sau, đuôi con rắn không cựa quậy được nữa. Anh cười ha hả "Phen
này xem mày có thua ông không". Tôi lặn xuống sờ đuôi con rắn thấy nó to
và ngắn. Có lẽ là cá chình? Để chắc ăn, tôi lặn một hơi dài, dùng dao găm sắc
cắt đứt ngang thân con vật. Lê Mỹ nhắm mắt lại, cố sức kéo chân ra. Còn tôi
cũng lôi được đầu con cá chình lên. Tuy rất đau nhưng anh Mỹ vẫn cố gắng đo
tiếp đoạn sông còn lại và tính được tiết diện cắt ngang của dòng chảy là 9 mét
vuông.
Tôi dìu Lê Mỹ về trạm xá băng bó thuốc
men. Mặt anh nhợt nhạt do mất máu, lại ngâm trong nước hơn hai giờ đồng
hồ. Một lát sau anh ngủ thiếp đi trên võng. Gần12 giờ, cô Cúc bưng cháo lên. Ôi!
Nồi cháo cá chình sao mà thơm ngon dậy mùi lạ lùng. Thèm quá tôi nuốt nước bọt.
Cúc đấm vào lưng tôi thùm thụp "Anh Tấn Quang không có phần đâu nhé, đến
xưởng trưởng cũng còn "nghỉ khoẻ" huống chi Trưởng ban như anh. Tôi
ngây thơ, tưởng thật, mặt buồn thiu bước ra. Cúc lại càng được thể "Thôi
mời anh xuống bếp, em đã dành cho anh suất ăn, lại còn tăng cường thêm một cái
bánh bao nhân đậu đỏ". Rồi cô ta cười như nắc nẻ không thấy trời đâu đất
đâu, chả là vừa rồi bị ong chích béo híp mắt lại. Biết mình đùa hơi quá, Cúc
chạy theo kéo áo tôi xềnh xệch. "Người đâu mà thật thà quá. Ba "con
mèo hen" như anh cũng không ăn hết cháo. Em mới làm một nửa, phần còn lại
tối nấu canh chua. Em biết các anh khoái khẩu món này mà". Lê Mỹ ăn hết tô
cháo đầy rồi làm một giấc ngon đến 6 giờ chiều.
Sáng hôm sau, tôi và anh Văn
Thuần xưởng trưởng trực tiếp đo vận tốc dòng chảy bằng phương pháp thả bóng
trôi theo nước, độ dài 40m, rồi dùng đồng hồ bấm giây, làm 10 lần, lấy trung
bình cộng. Anh Văn Thuần trách nhiệm cao, cái gì cũng muốn xông vào làm. Tôi
biết không phải anh ta không tin mình, mà muốn chia sẻ một phần sự vất vả của
cấp dưới. Lê Mỹ tập tễnh cố gượng ra bờ sông xem chúng tôi làm.
- Tấn Quang ơi! Vận tốc là bao
nhiêu?
- 1,8 mét/ giây anh ạ!
Anh
reo lên "tốt lắm, tốt lắm!".
Chiều tối về, tôi có cảm
giác Lê Mỹ đã giải toả được nỗi lo, bởi sau khi tính toán thì sông suất
của dòng chảy quá thừa thãi để chạy máy phát điện 16KW mục tiêu do anh đề ra. Rồi
anh lấy ghi ta nghêu ngao hát bài "Nổi lửa lên em". Tôi cũng ngẫu
hứng hát theo. Cái giọng khè khè của "con mèo hen" khi được ghi ta đẩy
lên cũng không đến nỗi tệ. Lán bên cạnh, mấy cô nuôi quân chạy sang hát theo, tạo
thành bè đặc sắc. Không khí trở lên náo nhiệt. Thú vị là xưởng trưởng Thuần
cũng chạy sang nhảy vào cuộc. Thế là hai con gà của ban chỉ huy bị chết oan.
Anh Thuần quyết định "Nuôi quân nổi lửa lên, nấu cháo gà"...
Anh Lê Mỹ có điện của thượng
cấp gọi về cơ quan nhận nhiệm vụ. Toàn bộ công việc bàn giao cho anh Văn Thuần
tổng chỉ huy. Anh Thuần phân công anh Dần xưởng phó chỉ đạo đắp đập tràn, nổ mìn
phá đá tạo ra buồng chứa tua-bin. Còn tôi hoàn chỉnh bản vẽ, chỉ đạo gia công
lắp đặt, chạy thử…
Tôi và Lê Mỹ cũng trăn trở
là cánh của tua-bin thiết kế như thế nào, kích thước, độ cong, độ nghiêng... vì
không có tài liệu. Bây giờ chúng tôi đã ở thế
"lỡ leo lên lưng cọp"... Tối hôm ấy anh Mỹ không ngủ được, khoảng
hai giờ sáng anh đánh thức tôi "Tấn Quang này, có lẽ phải thử nghiệm nhiều
lần để xác định kích thước, độ cong, độ nghiêng của cánh. Do đó phải chạy đua với
thời gian. Cậu chuẩn bị vài phương án, rồi hội thảo. Phương châm "Ba anh
nông dân bằng một Gia Cát Lượng". Cứ vững tin "ngồi trên mình
hổ" mà điều khiển nó. Tình hình thế nào thường xuyên liên lạc với
mình".
Tôi ngày đêm suy nghĩ về kết
cấu cánh tua-bin và chuẩn bị hai phương án. Trước mắt xem lại bản vẽ cơ khí
như: trục, vòng đệm, bạc, puly, gối đỡ v.v. Trên cơ sở bản phác thảo của kỹ sư
Lê Mỹ, tôi và Đức Tín hoàn chỉnh thành bản vẽ chính thức để gia công. Sau
một tuần cơ bản xong việc vẽ vời. Riêng bản vẽ cánh tua-bin chưa ghi kích thước
được.
Anh Dần trực tiếp chỉ đạo một
trung đội tổ chức đắp đập tràn và nổ mìn phá đá tạo thành buồng tua-bin. Công
việc này vô cùng vất vả và phức tạp, nguy hiểm, đòi hỏi phải có tính kỷ luật
cao. Sau một tháng, chúng tôi cơ bản hoàn thành công việc. Các anh có sáng kiến
dùng giây kẽm gai đan thành rọ lớn chứa đá, xếp thành hàng ngang, nhiều hàng, nhiều
lớp buộc liên kết lại thành một khối. Trên cùng và mặt trước đập trải hai lớp
tăng nilon Trung Quốc dán lại cho nước tràn qua. Để đảm bảo sự vững chắc của
đập khi tới mùa nước lũ, anhThuần cho anh em dùng dây cáp Mỹ néo chặt đập vào
các khối đá nhô lên...
Buồng tua-bin có đường
kính 2.0m, trong ghép ván gỗ dày hai phân, độ sâu 1.8m. Để chắc ăn, tôi đề nghị
anhThuần cho anh em tiếp tục nổ bộc phá thêm độ sâu 0.3m nữa.
Giai đoạn cuối cùng là lắp
ráp và chạy thử. Trầy trật hai lần hội thảo thay đổi hình dáng, kích thước cánh
tua-bin sau mỗi lần chạy thử mới đạt yêu cầu. Hôm đấu điện có tải, hồi hộp lạ
thường, máy đang chạy, đột nhiên "phành"một cái rồi dừng lại. Tất cả
hy vọng tiêu tan. Ai nấy buồn tiu nghỉu. Hoá ra dây cô-roa điều chỉnh căng quá
bị đứt. Thử lại lần thứ hai thì ok! Tiếng máy phát điện giòn tan, hòa cùng
tiếng máy tiện, phay, bào, khoan...và tiếng reo hò làm cho không khí xưởng máy
càng thêm nóng bỏng...
***
Buổi tối, trăng rằm đẹp lung linh. Gió
nhẹ đưa mấy giỏ phong lan trước hiên nhà ban chỉ huy. Tôi và anh Thuần rủ nhau
ra bờ sông dạo mát. Có lẽ anh Thuần ít có dịp sảng khoái, thanh thản như hôm
nay. Anh rất vui bởi trạm thủy điện đã thành công. Từ nay điện sẽ mang lại
niềm vui, hết cảnh công nhân vẹo sườn quay máy tiện, quạt các bễ rèn...Và không
còn cảnh đau lòng vì đổ máu như trước đây... Chúng tôi dừng lại ngắm đập tràn. Ôi
đẹp quá! Mặt sông lững lờ, lăn tăn gợn sóng. Ánh trăng như trải lên dòng sông
sắc màu huyền ảo. Đàn cá tung tăng lượn sát đập. Thỉnh thoảng vài con theo dòng
nước trườn qua đập, phơi mình trắng lấp lánh dưới trăng. Anh Thuần cười nói: Tấn
Quang này, ta đã có một cái hồ chứa cá, nguồn cá thiên nhiên vô tận. Rồi anh ngẫu
hứng đọc bốn câu thơ thất ngôn tứ tuyệt. Tôi chỉ "thêm mắm dặm muối" để
rõ tứ thơ:
"Trăng
vàng, cá lượn đẹp lung linh
Xưởng
máy reo vui nặng nghĩa tình
Điện
sáng, ca ba tăng sản lượng
Lựu,
mìn... xuất xưởng đón bình minh"...
Vài ngày sau, anh Thuần thêm hai khổ nữa
thành bài thơ hoàn chỉnh mười hai câu, có tựa đề "Điện sáng núi rừng".
Hôm cắt băng khánh thành, anh Thuần cho
chuẩn bị khá chu đáo, có trang trí, tập văn nghệ, tăng cường vật chất… Cục điện
xuống chi viện cho 50 kg thịt hộp Trung Quốc. Già làng ủng hộ hai con heo rừng.
Lại còn niềm vui bất ngờ, anh em vệ binh bắn được con nai rừng khoảng 100kg. Như
vậy vật chất quá thừa thãi, không phải mổ heo của đơn vị.
Cục trưởng xuống dự cắt băng khánh thành.
Chiều lễ mừng công. Tối liên hoan văn nghệ. Trưởng phòng chính trị đọc
điện chúc mừng của tư lệnh trưởng quân khu đối với cán bộ chiến sỹ công nhân
viên trong toàn xưởng và quyết định khen thưởng của Cục trưởng. Các anh Lê Mỹ, Văn
Thuần và tôi được tặng bằng khen, một số anh em khác được tặng giấy khen.
Vui nhất là tối liên hoan văn nghệ, toàn
đơn vị điện sáng trưng, sáng cả một góc rừng. Già làng nheo mắt cười nói
với Cục trưởng "Bộ đội Cụ Hồ giỏi thật. Nó bắt dòng sông này phải
sáng lên, từ xưa đến nay chẳng ai làm được"... Bản làng, già, trẻ, trai
gái đều được mời đến dự, ưu tiên ngồi mấy hàng đầu. Đội văn nghệ nghiệp dư của
đơn vị có nhiều tiết mục tự biên tự diễn khá đặc sắc. Tiết mục được nhiều
người chú ý nhất là ngâm thơ bài "Điện sáng núi rừng" do em gái
Vân Kiều thực hiện. Giọng em trong trẻo dễ thương, hoà với tiếng sáo véo von du
dương trầm bổng…
Những ngày ở bên bờ SôngTang - Trà Bồng -
Quảng Ngãi đã để lại cho tôi biết bao kỷ niệm vui buồn. Nó khắc sâu vào miền ký
ức, nơi mà bụi thời gian không thể làm cho hoen mờ…
N.Q.T