Phan Nam Sinh
(Nguồn: VNĐN số 17 - tháng 01 & 02 năm 2017)
Nhân 85 năm phong trào Thơ mới
Hơn mười năm trước, một bạn sinh viên hệ Đại học
tại chức hỏi tôi: Có bao nhiêu sự thật trong bài thơ Tình già của
Phan Khôi? Tôi hơi bị bất ngờ nên chỉ có thể trả lời anh bằng một nụ cười,
vì lúc ấy tôi có muốn trả lời cũng chưa thể trả lời được. Nhưng điều anh hỏi
thì đã theo tôi trong suốt một thời gian dài. Bởi cũng câu hỏi này nếu đem hỏi
cho một bài thơ tình nào đó của Xuân Diệu hay của Nguyễn Bính thì không khỏi có
hơi ngớ ngẩn, chẳng đáng tốn thời gian để suy nghĩ. Bởi hai nhà thơ này có tới
hàng chục, thậm chí hàng trăm bài thơ tình; tư duy ở các ông là tư duy của nhà
thơ, tư duy nghệ thuật; sự thực hay hình mẫu được sử dụng cho tác phẩm bao giờ
cũng gắn liền với hư cấu, tưởng tượng. Trong khi đó Tình già là bài thơ tình
duy nhất của Phan Khôi. Hơn nữa, Phan Khôi tuy có làm thơ, viết truyện ngắn, tiểu
thuyết nhưng trước hết ông là nhà báo; tư duy ở ông là tư duy của nhà báo, chủ
yếu là tư duy luận lý, luôn lấy tiêu chí trung thành với sự thực làm tôn chỉ
cho sáng tác của mình. Vì vậy, con số hai
mươi bốn hiện diện tới hai lần trong
bài thơ không ai dám nói chắc là con số phiếm chỉ. Vậy thì con số này có hay
không liên quan tới Phan Khôi? Nếu có thì liên quan tới sự kiện nào trong cuộc
đời ông? Cuộc tình được ông kể lại trong Tình già có phải là cuộc tình của
chính ông hay của một ai khác? Nếu đó là cuộc tình của ông thì nó diễn ra đúng
như trong bài thơ hay có gì khác? Tìm hiểu điều này vào dịp kỷ niệm 85 năm
phong trào Thơ mới (1932-2017) chắc chắn sẽ rất thú vị vì nó không chỉ
giúp ta hiểu rõ hơn cuộc đời Phan Khôi, một nhà báo lừng danh của nửa đầu thế kỷ
trước mà còn biết thêm lai lịch Tình già, một bài thơ đi tiên phong,
mở đầu cho thời kỳ Thơ mới.
Năm 2003, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh cho ấn hành Phan Khôi - Tiếng Việt, Báo chí và Thơ mới.
Trong tác phẩm này, nhà nghiên cứu Vu Gia đã dẫn lại tự truyện Tình
trong tù của Phan Khôi đăng trên tuần báo Đông Dương tạp chí của
Nguyễn Giang, số Xuân năm 1939 từ bài viết Phan Khôi qua một chuyện tình trong tù
của nhà văn Thế Phong trên bán nguyệt san Giáo dục phổ thông số Xuân, xuất bản
tại Sài Gòn năm 1960. Từ khi được soi sáng bởi các thông tin từ Tình
trong tù của Phan Khôi, những nghi vấn về ông qua bài thơ Tình
già dường như đã được hé mở và cái ý định trả lời câu hỏi của anh sinh
viên hơn mười năm trước lại thôi thúc tôi…
Theo lời kể của chính Phan Khôi thì vào năm
1908, khi chưa đầy 21 tuổi, do có liên quan tới phong trào kháng thuế, còn gọi là phong trào xin xâu ở Trung Kỳ, ông đã bị chính quyền thực dân kết án đồ ba năm
và giam tại nhà lao Quảng Nam trong quãng thời gian từ năm 1908 đến năm 1911.
Vào tù, ông mới tỉnh người ra bởi một câu than thở trong lá thư của thân phụ viết
cho ông: lập thân nhất bại, vạn sự ngõa giải, nghĩa là: lập thân mà đã hỏng đi rồi thì vạn sự cũng
theo đó mà tan nát. Mà quả đúng thế
thật! Chỉ một tháng sau, ông đã nhận được lời thối hôn của cha mẹ người vợ chưa
cưới. Điều này tuy không làm Phan Khôi bất ngờ bởi trước đó ông cũng đã từng dự
đoán Cái tú tài mới đậu xong đã bị tước
khử, về sau còn không được đi thi, như thế con đường làm quan hẳn cụt rồi,
không khéo về nỗi vợ con sẽ còn lôi thôi nữa nhưng có lẽ đã ảnh hưởng không
ít tới đường tình duyên sắp tới của ông.
Một ngày sau đó không lâu, do được thầy đội đề
lao và đám tù nhân đánh tiếng; ông Ch…, một viên quan võ hàng tứ phẩm đã sai
lính tới nhà lao đưa Phan Khôi về nhà y viết câu đối. Mặc dù người đang hâm hấp
sốt nhưng lấy sự được ra ngoài làm sung sướng nên Phan Khôi phụng mạng theo
chân người lính tới nhà viên quan võ. Cuộc gặp mặt lần đó được chính ông thuật
lại như sau:
Đến nơi,
thấy một đống cũng đến chín mười cân lụa đỏ bỏ ngổn ngang trên chiếu giải dưới
đất và một nghiên mực lớn mài sẵn. Một người đàn ông chừng năm mươi tuổi to lớn,
mặt đen, mũi to ngồi trên sập giữa nhà ấy là ông Ch…hất hàm chào tôi. Một thiếu
phụ còn trẻ lắm, trạc tuổi tôi, người trắng trẻo, khuôn mặt trái xoan, cả đầu lẫn
cổ quấn cái khăn nhiễu điều ngồi bên kia sập.
Nhà
không có cái ghế nào cả, tôi ngồi ngay trên cái chiếu dưới đất, chỗ để nghiên mực.
Ông Ch…bảo tôi:
-
Có biết uống rượu không thì(…) uống mấy chén mà viết cho dựa tay.
-
Bẩm có thì cũng được.
-
Nhà còn nước không mình?
Ông
Ch… xây hỏi người thiếu phụ. Tôi nghe mới biết người ấy là bà Ch…vợ ông.
-
Có hiếm mấy.
Vừa
nói thiếu phụ vừa đứng dậy đi vào bên trong cầm ra một chai rượu thuốc và một
cái cốc rót đưa cho tôi một cốc đầy.
Tôi
uống cạn cốc rượu rồi trải lụa ra viết. Ông Ch…sợ tôi viết quấy, cứ theo nhắc từng
chữ. Tôi lấy làm bực mình mà không tiện nói thì ông lại còn vẽ cho tôi chữ này
viết thế này, chữ kia viết thế kia. Tôi chừng muốn phát cáu. Người thiếu phụ xuống
khỏi sập(…) nói cùng ông Ch…:
-
Tôi xem người này cầm bút là người viết thạo, xin ông để cho người ta viết tự
do.
-
Bà nói lạ. Câu đối lụa ít tiền lắm sao?.
- Nhưng đã có ai làm hư của ông đâu? Ngồi kiềm
một bên thì còn ai viết được nữa chứ?
Ông Ch…hình như chịu vợ nói phải, bước ra khỏi
chiếc chiếu rồi hai vợ chồng đứng coi tôi.
Bấy giờ tôi thấy dễ chịu, hươi cây bút như rồng
bay phượng múa, hết đôi này đến đôi khác, càng viết càng thấy tốt. Người thiếu
phụ cứ đưa con mắt theo ngòi viết tôi. Còn hơn đôi nữa thì hết, ông Ch…bảo vợ:
- Mình ơi mình. Rót thêm cho va cốc nữa đi!
Người thiếu phụ ngoan ngoãn, rót cốc rượu đặt
trước mặt tôi và nói:
- Nghỉ tay uống rượu đã thầy.
Tôi vâng lời như cái máy. Viết xong, tôi cung
kính chào ông Ch...:
-Bẩm quan lớn…
Ông gật. Tôi lại hướng về người thiếu phụ:
- Bẩm bà lớn tôi vào.
Thì người đứng dậy:
- Tôi không dám,
thầy lên.
Có tất cả ba nhân vật hiện diện trong đoạn
trích và cả ba đều đáng được quan tâm nếu muốn tìm hiểu mối quan hệ giữa cuộc đời
Phan Khôi và bài thơ “Tình già”. Ông Ch…, một viên quan võ hàng tứ phẩm có nhiệm
vụ trông coi nhà lao mà Phan Khôi là tù nhân. Ông này, lúc Phan Khôi vào tù đã
trên dưới năm mươi, thuộc loại đứng tuổi. Nhìn bề ngoài, ông hơi dị tướng với
thân hình to lớn, mặt đen, mũi to, sống mũi đỏ, tiếng nói ồ ồ. Trong quan hệ với
người đối diện, dù là vợ hay người tù cậy tới nhà viết câu đối, ông đều tỏ ra kẻ
cả, trịch thượng; thiếu hẳn cái tế nhị của người đàn ông lịch lãm, hiểu biết.
Trong khi đó, bà Ch…chỉ mới hai mươi, trạc tuổi Phan Khôi là một thiếu phụ trẻ
đẹp với nước da trắng hồng và khuôn mặt trái xoan ưa nhìn. Ở bà có cái mềm mỏng,
nhũn nhặn lại có cả cái lịch sự, tế nhị của người phụ nữ có giáo dục; phục sức
kín đáo, sang trọng mà không diêm dúa, một hình ảnh hoàn toàn trái ngược với chồng.
Nhưng quan trọng hơn hết, bà là người rất tự tin và cũng rất tự chủ bởi luôn ý
thức được khả năng và vị thế của mình trong quan hệ với chồng. Còn Phan Khôi mới
hai mươi mốt tuổi, cũng cỡ tuổi bà Ch… Dẫu ở vị trí một người tù nhưng ông vẫn
rất đĩnh đạc, tự tin, không chút e dè, xun xoe trước kẻ quyền thế. Ông còn có
biệt tài viết câu đối vừa nhanh vừa đẹp mà không phải bất cứ ai ở tuổi ông lúc
đó cũng có được. Dường như nơi ông tiềm ẩn một chút kiêu sa thầm kín của một mẫu
người mang trong mình tinh hoa mà tự biết vậy. Cho nên không nói, ai cũng biết
điều gì sẽ xảy ra…
Quả như dự đoán, chừng nửa tháng sau ngày Phan
Khôi tới nhà viên quan võ, tên Trưng, một tù nhân được biệt đãi tới ở hầu hạ tại
nhà ông Ch…mang cho Phan Khôi một cái gói. Ông ngờ vực, có ý đề phòng, định
không nhận nhưng rồi nghe tên Trưng phân bua, ông đã đổi ý. Hãy nghe ông kể lại
việc này:
Tôi mở
cái gói ra trước mắt Trưng. Đố ai đoán biết được gói gì? Trời ơi! Gói trầu cau!
Mười miếng trầu têm kiểu Huế với mười miếng cau bửa dính, mỗi dây năm miếng chồng
nanh sấu lên nhau thêm mười mụn vỏ chay và mấy chùm hoa sói. Cái gì lạ! Thực
tình tôi không hiểu, hỏi Trưng:
- Của ai thế này?... Mà lại đưa cho tôi?
- Của bà Ch…
Trưng vừa nói vừa cười ngỏn ngoẻn.
- Đưa cho tôi? Tôi biết bà ấy là ai?
- Ấy thế mới lạ. Thầy mới có chuyện lạ, tôi đã
nói.
Trưng nói câu ấy ra dáng đắc ý lắm, và hắn bắt
đầu làm như hắn là người có công ơn lắm với tôi.
Liền tay gói cái gói lại, tôi trao trả Trưng,
thêm rằng:
- Anh cầm lấy, tôi không biết.
Trưng xin tôi cứ nhận và kể đầu đuôi:
- Lâu nay tôi phục dịch hằng ngày trong nhà
ông Ch… và tôi đã được tin cậy nên bà Ch…có đem tình riêng ngỏ với tôi nhiều lần.
Bà nói bà thấy thầy thì thương lắm, hôm nay gởi vật nhỏ mọn làm tin, mong ngày
khác thầy cho bà gặp mặt để nói chuyện...
Vậy là sau cái ngày tới viết câu đối, người
thiếu nữ sớm trở thành thiếu phụ này đã có tình ý với Phan Khôi. Cái gói trầu
cau do tên Trưng mang tới chứng cho việc bà đưa duyên làm tin nhưng vẫn chưa thể
biết việc gì sẽ xảy ra. Rồi một hôm, nhân ông Ch…đi vắng, bà Ch…sai lính tới
nhà lao đưa Phan Khôi về nhà mình. Vẫn theo lời kể của Phan Khôi trong tự truyện
Tình
trong tù:
Nhà có một
mình bà Ch…Bà tiếp tôi trong một phòng xép. Tôi ngồi trên cái chõng nhỏ, bà ngồi
ghế bên cạnh, tay đặt lên cái gáy trên cổ tôi, êm đềm nói:
- Chớ anh làm gì mà họ tù anh?
Tôi gắng mỉm cười nói bâng quơ một câu:
- Thưa bà, bà còn thương hại tôi nữa sao? Nội
một cái (…) tôi dám đến đây cùng bà là cũng đủ lắm rồi”.
Câu chuyện giữa họ vừa mới bắt đầu; những cử
chỉ, lời nói âu yếm, tình tứ của bà Ch… đang dở dang thì ông Ch… thình lình trở
về do còn nửa tiếng nữa các quan mới tới, ông không việc gì phải đến sớm để chầu
chực. Nghe thằng Trưng cấp báo, bà vội mở cửa cho Phan Khôi xuống bếp, dặn cứ đứng
yên một lúc sẽ hay. Nhưng khi nghe rõ tiếng nói ồ ồ của ông Ch... ở nhà trên,
ông đã mở cửa thoát ra ngõ, tìm gặp lại người lính rồi về thẳng nhà lao. Vì việc
này bà đã trách yêu ông: sao đã dặn ở đó
một chút nữa mà lại bỏ về?
Từ bữa ấy, bẵng đi một dạo khá lâu, bà Ch… không
tin tức gì cho Phan Khôi và hai người cũng khó có dịp nào để gặp nhau. Bởi ông
Ch… giữ rịt vợ chẳng khác nào thầy đội đề lao giữ Phan Khôi. Mỗi lần có việc
quan, ông thường đi rồi về ngay, không lần nào để bà ở nhà một mình quá ba tiếng.
Thương nhớ người yêu, bà Ch…nhiều lần sai thằng Trưng tới nhà lao gặp Phan
Khôi, mong ông kiếm cách đi ngang qua nhà bà một lần để bà trông thấy. Qua
tháng tư năm sau, ông Ch… dọn về ở trại lính, gần nhà lao. Từ đó bà Ch… và Phan
Khôi năng trông thấy nhau hơn nhưng vẫn không thể cùng nhau trò chuyện. Đến lúc
thằng Trưng mãn hạn tù, không còn hầu hạ ở nhà ông Ch… nữa thì tin tức giữa hai
người cũng thưa dần…
Rồi một ngày tháng chạp, Phan Khôi nhận được
thư bà Ch... Trong thư, bà nói nhân đi chữa lại đồ nữ trang, muốn gặp ông tại
nhà người thợ bạc. Lúc Phan Khôi đến, ở đó đã rất đông người, chỉ nhìn nhau
cũng sợ tai tiếng còn nói chi đến trò chuyện. Vậy mà ông Ch… chờ vợ lâu chưa thấy
về, đã lù lù dẫn xác tới. Vừa trông thấy cái sống mũi đỏ chờn vờn trước cửa,
Phan Khôi đã đảo ra ngõ sau, thành ra thủy chung ông bà chẳng nói với nhau được
lời nào. Về nhà lao, cái câu dù yêu nhau
mà không được gần nhau, thôi thì sống
để dạ, chết đem đi trong thư bà Ch… khiến ông suy nghĩ mãi. Không ngờ đó là
lần cuối ông được gặp bà. Bởi qua tháng giêng năm sau, không biết từ đâu ra mà
có tin bà Ch…lâm bệnh nặng, đưa về Huế điều trị được mấy tháng thì qua đời. Cái
tin bà Ch…đột ngột ra đi không khỏi làm Phan Khôi hoài nghi, tiếc nuối, nhớ lại
một chuyện tình thật đẹp đã qua đi trong khi ông không phải là người làm nên tội
lỗi!
Trên đây là câu chuyện tình giữa Phan Khôi và
người vợ trẻ của viên quan võ trông coi nhà lao được chính ông thuật lại trong
tự truyện Tình trong tù. Đối chiếu với mối tình trong Tình
già, ta có thể khẳng định mối tình trong bài thơ là của chính Phan
Khôi. Bởi nó bắt đầu từ năm 1908, cho tới lúc Tình già xuất hiện lần đầu
trên báo, trước là Tập văn mùa xuân của báo Đông Tây ở Hà Nội sau là Phụ nữ
tân văn tại Sài Gòn cùng ra vào năm 1932 là vừa đúng hai mươi bốn năm.
Con số hai mươi bốn trong Hai mươi bốn năm xưa… mở đầu Tình
già đúng là con số xác định mà không phải là con số phiếm chỉ. Mối tình
trong Tình trong tù giữa Phan Khôi, một thanh niên vừa bị gia đình
nhà gái thối hôn và bà Ch…, một thiếu phụ trẻ, trong thực tế đầy ngang trái đã
trải qua nhiều bất trắc, khiến cả hai chẳng ai tin rồi sẽ kết quả. Chính Phan
Khôi đã có lúc muốn buông xuôi nhưng bà Ch… thì một mực níu kéo. Tâm trạng hoang
mang, tuyệt vọng của cả hai đã được ông ghi lại trong Tình già:
- Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng, mà
lấy nhau hẳn đà không đặng
Để đến nỗi tình trước phụ sau, chi cho bằng sớm
liệu mà buông nhau!
- Hay! Nói mới bạc làm sao chớ! Buông nhau làm
sao cho nỡ?
Thương được chừng nào hay chừng nấy, chẳng qua
ông Trời bắt đôi ta phải vậy!
Ta là nhân ngãi, đâu có phải vợ chồng mà tính
việc thủy chung?
Vậy là ở nửa trên bài thơ, Phan Khôi chỉ
giữ vai trò một nhà báo, ghi lại trung thành cuộc tình của chính mình. Vậy còn ở
nửa sau bài thơ thì sao? Bởi theo tin Phan Khôi nhận được thì chỉ sau một năm
ông vào tù, bà Ch… đã lâm bệnh nặng rồi qua đời. Nếu quả thế thì làm gì có chuyện
Hai mươi bốn năm sau như trong bài
thơ? Vậy mà vẫn có đấy! Trong trường hợp này, Phan Khôi đã tạm quên vai trò nhà
báo để làm nhà thơ với không chỉ hiện thực được tôn trọng như ta vốn biết mà
còn thêm hư cấu, tưởng tượng nữa. Và ông đích thị đã là nhà thơ với câu thơ thật
hay kết thúc Tình già:
Hai mươi bốn năm sau, tình cờ đất khách gặp
nhau:
Đôi cái đầu đều bạc. Nếu chẳng quen lung, đố
có nhìn ra được!
Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi!
Con mắt còn có đuôi.
Nhưng dù cho có cả tin cũng không ai tin ngay
là bà Ch…đã đột ngột qua đời nếu không phải là bà quyên sinh mà chỉ vì bệnh nặng.
Bởi ai chẳng biết ông Ch… cả ghen. Rất có thể cái tin bà Ch… qua đời là do ông
tung ra nhằm đánh lừa tình địch, tránh các cuộc gặp mặt có thể có về sau này giữa
Phan Khôi và vợ ông. Nếu cái tin bà Ch…qua đời là thất thiệt mà sự thực là bà vẫn
còn sống, còn yêu Phan Khôi và hai người đã gặp lại nhau sau hai mươi bốn năm
xa cách như trong bài thơ thì Phan Khôi lúc này đã trở lại là nhà báo, tôn trọng
sự thật như vốn có, cho dù ông đã viết được câu cuối của bài thơ mà những người
chê thơ Phan Khôi trước nay cũng phải thừa nhận là hay.
Vậy câu hỏi của anh sinh viên Có bao nhiêu sự thật trong bài thơ Tình già của Phan Khôi? giờ tôi đã có thể trả
lời như sau: Nếu cuộc tái ngộ ở cuối bài thơ Tình già là cuộc tái ngộ
có thực trong cuộc đời Phan Khôi thì toàn bộ Tình già là sự thật, và
khi đó Phan Khôi là nhà báo. Nhưng cũng cuộc tái ngộ ấy nếu chỉ có trong Tình
già mà không có trong cuộc đời thực của Phan Khôi thì một nửa trước Tình
già là sự thật còn nửa sau là hư cấu, tưởng tượng và khi đó Phan Khôi
là nhà thơ. Cho dù có thế đi nữa, tôi vẫn tin ở Phan Khôi cái chất nhà văn, nhà báo nhiều hơn chất nhà thơ. Vì vậy tôi luôn gọi ông là
nhà văn - nhà báo Phan Khôi mà không là nhà thơ Phan Khôi như có người đã gọi.
Mặc dù tôi vẫn biết, khi sáng tác bằng các thể thơ dân tộc hay thơ luật, ông đã
để lại cho hậu thế những bài thơ hay hoặc rất hay!
P.N.S