Bút ký của Phan Trung Thành
(Nguồn: Sách Tiếng rừng
- Nxb. Đồng Nai 2016)
Tôi đang hồi hộp lắng
nghe nhịp thở của rừng già Mã Đà, thầm cầu nguyện cho nơi này được bình yên,
tránh mọi cuộc “tàn phá của bàn tay lâm tặc”, để “miền cổ tích” còn vẹn nguyên
cho thế hệ mai sau. Khi ngồi trên núi Cúi nhìn vọng xuống một vùng sông nước trù
phú quanh hồ thủy điện Trị An, bất chợt bên tai tôi như có tiếng của người rừng
- tiền nhân đã đến nơi này mấy ngàn năm trước, tôi đoán vậy, “Ngươi hỏi ta
thiên đường ư? Thiên đường ngay dưới chân mình đó thôi”.
Dùng chữ “hồi hộp” khi
miêu tả về Khu DTSQ Đồng Nai, người viết bài này đã ngẫu nhiên vào Google
gõ từ khóa “phá rừng”, ngay lập tức trong 0,54 giây cho 1.990.000 kết quả.
Tương tự, gõ từ “lâm tặc” cho 1.060.000 kết quả trong khoảnh khắc 0,69 giây. Đó
là một kết quả thật đau lòng và thật sự hãi hùng cho những ai quan tâm đến lá
phổi thiên nhiên vĩ đại mà đấng tạo hóa đã ban tặng cho con người. Rừng là lá
phổi của trái đất, mang một sứ mệnh, vai trò duy trì sự sống, cân bằng sinh
thái và sự phát triển đa dạng sinh học.
Tại hội nghị về các giải
pháp khôi phục rừng bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu ngày 20-6-2016 cho
biết: Tổng diện tích rừng và đất quy hoạch cho lâm nghiệp của 5 tỉnh Tây Nguyên
là 3.354.194ha, trong đó rừng giảm 180.000ha so với năm 2010. Có ba nguyên nhân
chính, nhưng chủ yếu tập trung vào nạn phá rừng, lấn chiếm đất rừng để canh
tác, sản xuất nông nghiệp và trồng cây công nghiệp, khai thác gỗ và lâm sản
trái phép. 5 tháng đầu năm 2016, các lực lượng đã phát hiện và xử lý 1.724 vụ.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu “Mất rừng là mất Tây Nguyên” và Tiến sỹ Vũ
Ngọc Long (Viện trưởng Viện Sinh thái học miền Nam) bổ sung thêm: “Mất rừng là
mất sạch”. May thay, mức độ “tàn phá” do di họa của đói nghèo, do thiếu hiểu biết,
thiếu ý thức trách nhiệm và lòng tham của con người trong vài thập niên qua
chưa có cơ hội lan đến nơi đây, mặc dù vẫn có những vụ săn bắn trái phép của
vài cá nhân đơn lẻ đã bị lực lượng bảo vệ, các ban ngành ngăn chặn kịp thời uốn
nắn nên “một vùng cổ tích” mà nhân dân Đồng Nai đang sở hữu còn khá nguyên vẹn,
ngày càng phát triển sinh sôi.
Chỉ sau sự hình thành Khu
DTSQ rừng ngập mặn Cần Giờ đúng một năm, năm 2001 Vườn quốc gia Cát Tiên được
công nhận là Khu DTSQ thế giới và đến ngày 29-6-2011 UNESCO tiếp tục công nhận
Khu DTSQ Đồng Nai (Bao gồm Vườn quốc gia Cát Tiên và Khu Bảo tồn Thiên nhiên -
Văn hóa (TNVH) Đồng Nai) là Khu DTSQ thứ 580 của thế giới và là Khu DTSQ thứ 8
tại Việt Nam. Khu DTSQ Đồng Nai nằm ở khu vực chuyển tiếp giữa cao nguyên miền
Trung Việt Nam và đồng bằng Nam bộ, chứa đựng các kiểu địa hình tiêu biểu của
Nam Trường Sơn, vùng trung du và vùng đồng bằng Đông Nam bộ. Nét nổi bật về địa
hình của Khu DTSQ Đồng Nai là sự phân bậc khá rõ rệt, có 5 kiểu địa hình chính
là: địa hình núi cao, sườn dốc; địa hình trung bình, sườn dốc ít; địa hình đồi
thấp, bằng phẳng; địa hình bậc thềm sông Đồng Nai và địa hình thềm suối xen kẽ
với hồ, đầm. Đây là nơi chứa đựng các dạng môi trường sống và một số loài sinh
vật quý, hiếm còn sót lại ở miền Nam Việt Nam…
“Thật chưa đủ khi chỉ
gọi rừng và thiên nhiên là những người bạn tốt của chúng ta. Còn hơn thế, đó là
những người bạn nhẫn nại. Họ chẳng phàn nàn với ai. Họ chỉ thầm lặng ra đi, thầm
lặng biến mất nếu chúng ta coi thường những nhu cầu của họ”, một nhà văn
người Nga từng viết. Vì vậy, thái độ ứng xử với rừng luôn là vấn đề sống còn của
hành tinh.
Năm 1997, lãnh đạo tỉnh Đồng
Nai đã thực hiện chủ trương đóng cửa rừng, toàn bộ các lâm trường trong tỉnh
ngưng khai thác và chuyển sang nhiệm vụ quản lý bảo vệ rừng. Đó là việc làm
mang tính khoa học, thời đại và có trách nhiệm đối với môi trường thiên nhiên,
với thế hệ mai sau.
Đi và hít thở không khí
nơi này, lòng tôi chợt nghĩ hàng vạn con người trong các đô thị quanh đây có mấy
ai nhớ vùng đất này là lá phổi vĩ đại?
Cách 40 km là tới Biên
Hòa, với Cù lao Phố và những huyền thoại người Minh Hương (phản Thanh phục
Minh) đến sinh sống, các cuộc chạm trán của nghĩa quân nhà Tây Sơn khi chiếm được
Gia Định thành (Nguyễn Ánh bỏ chạy) thì nghĩa quân đã vào đập phá Cù lao Phố để
lại nhiều dấu tích mà người đời sau không khỏi ngậm ngùi. Biên Hòa ngày nay là
trung tâm sầm uất, nhiều nhà máy đã mọc lên bên cạnh một Bình Dương - Thủ Dầu Một
thu hút sức lao động từ muôn nơi đổ về. Chỉ cách 70 km là đến thành phố lớn nhất
phía Nam với gần chục triệu dân với bao công trình, nhà máy đang ngày đêm vận
hành tỏa khói. Nếu - không có Đồng Nai, chính xác hơn nếu không còn Khu DTSQ Đồng
Nai thì người mẹ vĩ đại nào của thiên nhiên đứng ra làm bình khí vô tận cho
muôn loài hít thở?
Có thể nói, với diện tích
lên đến 969.993ha, trong đó có 152.000ha rừng liền mạch, vừa có hệ thống sông,
suối, ao, hồ và các di tích văn hóa lịch sử nằm dọc biên của 5 tỉnh Bình Dương,
Bình Phước, Lâm Đồng, Bình Thuận và ôm lấy tỉnh nhà Đồng Nai là một ưu điểm nổi
trội mà ít có khu DTSQ nào trên đất nước ta có thể so sánh được. Khu DTSQ Đồng
Nai bao gồm cả vườn quốc gia Cát Tiên, Khu Bảo tồn TNVH Đồng Nai, bao gồm cụm
di tích, căn cứ cách mạng. Trong một chuyến công tác tạo cảm hứng cho văn nghệ
sỹ ngày 30-5-2016, khi thuyền chúng tôi chạy vòng quanh các đảo nhỏ nhấp nhô
trên hồ Trị An, Phó Trưởng Ban Thường trực Khu DTSQ Đồng Nai, Giám đốc Khu Bảo
tồn TNVH Đồng Nai, Tiến sỹ Trần Văn Mùi hướng mắt phía lòng hồ nói nhỏ với
chúng tôi: “Ở nơi đây cần có một nghĩa trang, nghĩa trang dưới nước”.
Không chỉ tôi lặng đi mà
còn nhiều ánh mắt của anh chị em nghệ sỹ trong đoàn như nhà văn Bích Ngân, Thu
Trân, Võ Thu Hương và nhiều anh chị em khác nhìn nhau chơm chớm nước mắt. Bởi
biết rằng, thuyền đang đi trong hồ mà cách nay hơn ba mươi năm, theo lời kêu gọi
của Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, nay là cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt,
hàng chục ngàn thanh niên trai trẻ từ các nơi quần tụ về vùng đất hoang vu này
của Đồng Nai (còn có tên xa xưa là Dou-nai trong thư tín của Pháp, Dã Lộc - cánh
đồng nhiều nai, theo cách phiên âm Hán) biến thác Trị An, bậc thứ chín cũng là
bậc cuối cùng của dòng sông Đồng Nai đang băng băng giữa đại ngàn, ngăn dòng đắp
đập để tạo nên công trình đồ sộ có giá trị biểu tượng cho phía Nam thuở ấy. Biến
dòng chảy hung hăng trở thành công trình thủy điện Trị An có giá trị về kinh tế
cao, phát điện cho cả Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh xung quanh. Đây là hồ
nước nhân tạo lớn nhất Việt Nam với diện tích 32.400ha cung cấp nước sinh hoạt
và sản xuất cho hơn 15 triệu cư dân vùng hạ lưu. Trên lòng sông rộng mênh mênh
được bao bọc bởi những tán cây rừng mướt mát, khoảng 70 hòn đảo lớn nhỏ (gọi là
tiểu cảnh) cho mặt sông này thêm trù phú, đa dạng. Một bức tranh thủy mặc ấn tượng
trong kí ức người du lãm qua đây. Đoàn chúng tôi được Giám đốc Mùi chiêu đãi một
món cá lìm kìm mảnh như sợi len màu trắng ngà, cá lìm kìm phơi khô một nắng
chiên sơ trên chảo dầu chấm với tương ớt, không quên mang theo một chai rượu mật
nhân thương hiệu “Chiến khu Đ” (Rượu mật nhân đang được lan truyền nhiều huyền
thoại về giá trị chữa bệnh của thân rễ cây mật nhân. Rượu mật nhân phải được
ngâm từ thảo dược trong tỉnh nhà cùng với rượu gạo cũng xản xuất tại đây để cho
ra đời sản phẩm Rượu mật nhân Chiến khu Đ, chỉ một ly nhỏ trong chiều cũng đủ
giãn gân cốt cho du khách sau một ngày leo trèo khám phá vùng rừng nhiệt đới).
Nhấp một chút với sợi cá
lìm kìm khi đang lướt trên hồ cũng mới thấy thích cái thú tiêu dao. Ông Mùi bảo,
cá lìm kìm bơi trên mặt nước, thành đàn, chúng sinh trưởng nhanh trong hồ Trị
An. Bất chợt, tôi nhớ ánh mắt ông khi nói ra điều mong ước. Biết bao người con
từ mọi miền của Tổ quốc đã để lại thân xác hoặc một phần đời nơi đây, khi dọn
lòng hồ để làm công trình cho kịp tiến độ, biết bao nhọc nhằn đằm lại. Quá xúc
động khi nghe một dự án, một tâm sự của Tiến sỹ Trần Văn Mùi, nhà thơ Phạm Sỹ
Sáu đã đọc Hành tráng sỹ mới anh viết tại mặt trận Campuchia trong màu
áo quân tình nguyện. Nhà văn Hoàng Đình Quang đọc bài thơ xúc động anh viết về
đồng đội là thương binh nay trở lại đời thường với bao dằn vặt. Gặp bạn ở chợ
Bến Thành cũng là phát hiện đớn đau về đồng đội bước ra thời bình “Một
thời đánh Bắc dẹp Đông/ Chiến tranh kết thúc dở ông dở thằng”. Từ cảm hứng
đó, những khúc ca viết vội về mảnh đất con người Đồng Nai cũng được cất lên.
Tôi, một kẻ hậu sinh sống và lớn lên trọn trong thời bình, khi đi qua vùng đất
này đã lưu giữ nhiều cảm xúc. Lặng yên nghe sóng vỗ, nhìn một áng mây rớt xuống
lòng hồ như cánh chim chấp chới. Tôi nghĩ về số phận, tôi nghĩ về kiếp người,
ai đã đến đây giữa trời đất bao la rồi để lại vấn vương? Một nghĩa trang để tri
ân những người đã mất, xác thân họ còn vương nơi đáy lòng hồ, hoặc hy sinh
trong các cuộc chiến, tôi nghĩ đó là lẽ phải. Tôi thấu hiểu lòng ông và cầu
mong cho ước mơ này chóng thành hiện thực.
Trong mạch cảm xúc, đoàn
chúng tôi ngay hôm ấy đã lên thăm các di tích, căn cứ Trung ương Cục miền Nam,
Khu ủy miền Đông Nam bộ nằm trong Khu Bảo tồn TNVH Đồng Nai, nay là Khu DTSQ Đồng
Nai. Lịch sử cách mạng miền Nam gắn liền với những khu căn cứ mà chỉ có rừng tự
nhiên của vùng Đông Nam bộ mới tựu đủ các yếu tố cần thiết trong chiến lược
quân sự hình thành và phát triển. Trung ương cục miền Nam khởi đầu hình thành
và chọn nơi này làm trụ sở, mặc dù chỉ hoạt động trong vài năm, từ 1961- 1962
sau đó chuyển sang Tây Ninh nhưng căn cứ quan trọng này vẫn tiếp tục tồn tại để
làm chỗ dừng chân cho nhiều cơ quan quân sự, hậu cần của Khu ủy miền Đông. Sau
này tiếp tục là tuyến đường nối thông từ Bắc vào tiếp đường Trường Sơn huyền
thoại, tiếp viện chi viện của miền Bắc cho chiến trường miền Nam. Bao bọc căn cứ
là những cây chò hàng trăm tuổi, vân gỗ nhẵn bóng như những “chiến binh” đã trải
bao nắng mưa. Cây chò có sức vươn cao đủ để chiến sỹ canh gác leo lên ngọn cây
quan sát xung quanh bốn phía. Cách vài km len lỏi trong rừng già là Di tích,
căn cứ Khu ủy miền Đông Nam bộ (Quân khu miền Đông) trong thời gian từ năm 1962
đến 1967. Nơi đây, Bộ Tư lệnh đã chỉ huy lãnh đạo các lực lượng vũ trang phối hợp
với quân chủ lực Miền làm nên những chiến thắng vang dội.
Lịch sử đã khép lại nhưng
những gì về mảnh đất, con người và trí tuệ, sức lực hội tụ để làm nên nó thì cần
phải mở ra ở nhiều cách tiếp cận khác. Mọi thứ lưu giữ nằm trong sự hiểu biết mới
bền vững. Tôi biết, tất cả những công việc lớn lao này sẽ là thách thức lớn đối
với những người lãnh đạo và cả tập thể cán bộ, nhân viên Khu DTSQ Đồng Nai.
Nhưng, bằng những gì nghe, thấy được trong chuyến đi bổ ích này, tôi tin họ sẽ
làm được: Từ câu chuyện của anh kỹ sư nhân giống trẻ Trần Đình Hùng với câu nói
yêu thích “Khi trái lìa cành cũng là khi sự sống bắt đầu cho một tương lai tươi
sáng“; Từ ánh mắt thân thiết của em hướng dẫn viên lo cho đoàn chúng tôi băng rừng,
tranh thủ giới thiệu từng lá cây ngọn cỏ... đến những trăn trở băn khoăn của
nhiều đồng chí lãnh đạo, của bác Võ Văn Một - người đã đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch
tỉnh Đồng Nai đến hai nhiệm kỳ và là người gắn bó với rừng từ suốt thời thơ ấu.
Vậy nhưng để có những dòng chữ viết về bác thật không dễ chút nào, bác bảo
chúng tôi yêu rừng theo cách của nông dân, gắn bó thì được nhưng để nói về nó
thì phải có kiến thức khoa học, các bạn trẻ trong Khu DTSQ hiện nay được trang
bị khá tốt.
Ngọn lửa nhiệt huyết với rừng còn được thể hiện
khá rõ nơi anh Nguyễn Minh Tâm (Phó GĐ) khi giới thiệu mô hình công trình văn
hóa Tháp Chiến khu Đ tọa lạc ở xã Mã Đà huyện Vĩnh Cửu, Đồng Nai. Công trình tổ
hợp văn hóa này gồm một tòa nhà với tổng chiều cao 70 mét, toàn bộ mô hình tháp
là một tổ hợp kiến trúc, điêu khắc mang hình tượng của trái dầu và cách điệu của
mằm sống, lá trung quân và hoa tam lang, biểu trưng cho đất và người miền Đông
“Gian lao - Anh dũng - Năng động - Sáng tạo”. Khi xem phim về mô hình Tháp Chiến
khu Đ hình thành từ trước năm 2009, nay đang chờ kinh phí của tỉnh Đồng Nai cấp
để hiện thực hóa mô hình này, tôi thấy một Đồng Nai đang bay.
Khép lại một chuyến đi 4
ngày ngắn ngủi, được đắm mình trong không khí mát lành của Khu DTSQ, được ăn những
món dân dã chế biến từ thực phẩm sạch nuôi trồng tại địa phương, các loại rau rừng
gợi nhớ một thời khói lửa, bữa cơm dã chiến được chuẩn bị trong thời bình, đủ sức
hấp dẫn và đủ năng lượng cho người thích đi khám phá, tôi chợt liên tưởng một số
liệu mà báo chí gần đây công bố: “Du lịch là một trong những ngành bán lẻ lớn
nhất trên thế giới. Mỗi năm, toàn thế giới có khoảng 900 triệu khách du lịch quốc
tế (chưa kể các khách du lịch nội địa), tiêu xài khoảng trên 1 ngàn tỉ đôla, tức
là khoảng 3 tỉ đôla mỗi ngày”. Mong sao nơi này không những tiếp tục giữ gìn
nguyên vẹn lá phổi xanh cho nhân loại mà còn khai thác những mô hình du lịch dã
ngoại để góp phần cất cánh cho tỉnh Đồng Nai. Và rất nên đưa vào nhà trường những
tiết học lí thú về rừng bản địa, và hơn hết là giáo dục cho con em hãy làm một
công dân thời thượng biết bảo vệ môi trường, đi du lịch xanh với tiêu chí hãy
đừng lấy đi cái gì ngoài những bức ảnh, hãy đừng để lại gì ngoài những dấu chân.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 8-2016
P.T.T