Tiến sĩ Nhà thơ Phạm Quốc Ca
TS. Nhà thơ Phạm Quốc Ca nói chuyện tại Trại sáng tác VHNT Trẻ Đồng Nai 2018 - Ảnh: Ngô Hường
1.Thơ như tôi quan niệm
Từ trước tới nay đã có không ít định nghĩa về thơ nhưng xem ra
chưa có định nghĩa nào thỏa mãn người đọc. Đơn giản là do nội hàm khái niệm thơ
vô cùng phong phú, đa dạng. Tùy từng thời đại, từng xu hướng, từng nhà thơ mà
hiểu thơ khác nhau, nhiều khi phủ định nhau. Nếu A.Musset cho thơ là cảm xúc
với luận điểm nổi tiếng: “Hãy
đập vào trái tim, thiên tài là ở đó!” thì P.Valéry cho thơ là sự nở hoa của trí tuệ.
Thậm chí có khuynh hướng xem thơ thuộc lĩnh vực thần bí. Platon
cho rằng khi làm thơ thi sĩ bị thần linh chi phối. Lục Cơ (Trung Quốc) đã lý
giải về sự sinh thành của thơ là do sự rung động của Đạo.
Quan niệm chính thống về thơ của Nho giáo là “thi ngôn chí”
[Thiên “Thuấn điển” trong Kinh Thư]. Quan niệm này cũng đã thống trị
hàng ngàn năm thơ Trung đại Việt Nam. Phan Phu Tiên (đời Trần) đã viết trong
lời tựa “Việt âm thi tập tân san”: “Trong lòng có điều gì tất hình
thành ở lời cho nên thơ để nói chí vậy”[9, tr.239].
Trong thơ Trung Quốc còn
có quan niệm “thi ngôn tình” xuất hiện từ thế kỷ III (đời Đông Tấn).
Quan niệm thi ngôn tình đã ảnh hưởng tốt đẹp đến trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong thơ
Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX mà tiêu biểu là Truyện Kiều của Nguyễn Du. Quan niệm “thi ngôn
tình” gần với thuyết biểu hiện trong thơ phương Tây. Theo đó, thơ là sự
tuôn tràn, bột phát những tình cảm mãnh liệt.
Các nhà thơ phương Tây thời kỳ hiện đại có xu hướng xem thơ là
nghệ thuật ngôn từ. Làm thơ tức là làm cho ngôn ngữ trở thành tác phẩm nghệ
thuật.
Theo các nhà cấu trúc luận Pháp, thơ là một hệ thống ký hiệu. Ý
nghĩa của tác phẩm thơ tùy thuộc vào các quan hệ bên trong văn bản.
Phê bình mới Mỹ xem thơ
là một hình thức ngôn ngữ có tính chất tự quy chiếu và tự đầy đủ cho nó.
Còn có cách làm sáng tỏ đặc trưng của thơ bằng cách đối lập với văn xuôi. Chức năng ngữ học của văn xuôi
là định danh và biểu đạt. Chức năng ngữ học của thơ là khơi gợi trí tưởng
tượng sáng tạo.
Ở Việt Nam trong mấy chục năm trở lại đây đã có nhiều người nỗ
lực định nghĩa thơ. Hà Minh Đức trong công trình Thơ
và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại [2],
Mã Giang Lân trong công
trình Tìm hiểu thơ [5] đã tổng hợp nhiều ý kiến về thơ
của các nhà nghiên cứu, nhà thơ rất thú vị.
Đáng chú ý là trên Tạp
chí Văn học số 1, (1991), Nhà
nghiên cứu Phan Ngọc đã có bài viết Thơ
là gì?. Trong bài này, ông cho rằng định nghĩa thơ
phải đáp ứng những yêu cầu sau:
“a, Có giá trị phổ quát, áp dụng cho
mọi hiện tượng gọi là thơ trên trái đất này, bất chấp mọi ngôn ngữ, thời gian,
tập quán, trường phái.
b, Mang tính hình thức giúp người ta nhận được ngay thơ, không
cần phải có kinh nghiệm và hiểu biết nghệ thuật.
c, Giúp người ta nắm được thực chất của thơ để làm thơ, đọc thơ,
giảng thơ có hiệu quả”.
Tiếp theo, ông đã đưa ra định nghĩa về thơ của mình: “Thơ là
cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải
cảm xúc và phải suy nghĩ do chính hình thức tổ chức ngôn ngữ này” [6].
Có thể thấy yêu cầu của Phan Ngọc đối với định nghĩa thơ là quá
cao và định nghĩa của ông cũng còn có chỗ để bàn. Thơ được sáng tạo theo quy
luật của cái đẹp. Nếu “hết sức
quái đản” thì đã ra ngoài địa
hạt thơ.
Chúng tôi chỉ mới dẫn ra một số ý kiến nhận diện thơ. Để có một
định nghĩa thơ được mọi người chấp nhận là một điều dường như bất khả. Chế Lan
Viên đã nói lên một tâm trạng rất thật: “Chả lẽ tôi hì hục làm thơ mấy chục
năm trời lại trả lời rằng thơ cũng khó định nghĩa như điện, như tình yêu ấy.
Thế thì điệu quá, làm bộ làm tịch quá. Nhưng thực ra tôi chưa hiểu hết thơ đâu.
Tôi cũng có định nghĩa nhiều lần đấy, nói hẳn hoi, viết hẳn hoi nhưng lần này
định nghĩa thì lần sau nắn lại. Chỗ này định nghĩa thì chỗ khác bổ sung. Vẫn
còn nghĩ tiếp…” [11, tr.96].
Mặc dù khó khăn
vậy, chúng tôi xin đưa ra thêm một định nghĩa thơ, góp phần mình vào thi học: Thơ là loại nghệ thuật ngôn từ,
sáng tạo theo các nguyên lý: Lạ hóa, có tính nhạc và sử dụng tối ưu các thủ
pháp nghệ thuật,
nhằm chia sẻ với người đọc những cảm xúc, suy ngẫm trong một giá trị thẩm mỹ.
Sau đây chúng tôi xin làm sáng tỏ định nghĩa này.
1.1. Thơ là loại nghệ thuật ngôn từ
Điều đầu tiên chúng tôi muốn nhấn mạnh trong định nghĩa của
mình: “Thơ là loại nghệ thuật
ngôn từ”.
Nhiều nhà nghiên cứu đã trích dẫn các định nghĩa thơ từ phương
diện nội dung trữ tình. Ví dụ như: “Thơ là tiếng nói đồng ý, đồng tình,
tiếng nói đồng chí”… “Thơ là tiếng nói tri âm”… “Thơ là chuyện đồng điệu…” (Tố Hữu) [3, tr.423]. Điều này dễ dẫn
đến ngộ nhận rằng bản chất của thơ là ở nội dung trữ tình, nghệ thuật chỉ là
phương tiện để thể hiện nội dung. Một số quan niệm thơ từ xưa tới nay đã củng
cố cách hiểu đó. Ví dụ như quan niệm thi ngôn chí (thơ để nói chí) của Nho giáo.
Thơ có thể gắn với chính trị, triết học, đạo đức học… nhưng
trước hết nó phải là thơ và phải biến tất cả thành như là vấn đề của nội tâm cá
nhân nhà thơ. Nghĩa là bài thơ phải xuất phát từ bộ máy cảm quan độc đáo, không
lặp lại của chính người làm thơ. Nhà thơ Xô viêt nổi tiếng V.Mayacovsky tâm
niệm:
Chuyện cách mạng, chuyện đất nước vang lên
Hay chuyện chính con tim tôi đó.
Điều đó có nghĩa là thông điệp mà nhà thơ gửi đến bạn đọc phải thấm đẫm chất thơ ở nội dung trữ tình. Bên cạnh đó ông cũng đã nói lên lao động sáng tạo
thơ căng thẳng như thế nào:
Phải tốn hàng nghìn cân quặng chữ
Để thu về một chữ mà thôi
Đỗ Phủ thì trăn trở: “Ngữ bất kinh nhân tử bất hưu” (Lời
thơ chưa làm cho người ta kinh ngạc, đến chết chưa nghỉ).
Thơ muốn mang bất cứ sứ mệnh lớn lao nào thì trước hết phải có
chất thơ. Bản chất thơ là nghệ thuật ngôn từ.
1.2. Thơ được sáng tạo
theo nguyên lý lạ hoá
Lạ hoá
không chỉ là thủ pháp mà còn là nguyên lý căn bản của thơ. Nhà thơ là người
không chịu nhìn cuộc sống theo quan niệm của số đông, của “lẽ phải thông
thường” đã trở nên quen thuộc, sáo mòn. Đối tượng công phá thường trực của thơ
là sự rập khuôn, máy móc của tư duy, của cách cảm, cách nghĩ, cách viết mà người ta sa vào một cách tự động,
nhiều khi không tự biết. Thơ phải gây được hiệu ứng tâm lý ngạc nhiên, thú vị
và khâm phục ở người tiếp nhận: Ngạc nhiên ở khả năng nhìn ra cái mới nơi thế
giới quen thuộc, ngạc nhiên ở tài năng sáng tạo của nhà thơ trong việc sử dụng
ngôn từ và các thủ pháp nghệ thuật. Đã có hàng vạn câu thơ về mùa thu nhưng thơ
Bích Khê trong bài Tỳ bà vẫn ánh lên vẻ đẹp mới lạ:
Ô! hay! buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: thu mênh mông.
Sứ mệnh
của thơ là sáng tạo cái mới. Thơ không chỉ bỏ qua cái non yếu, cái lạc hậu mà
còn bỏ qua cả cái đẹp, cái hay đã quen thuộc. Những người làm thơ đều hiểu lao
động sáng tạo căng thẳng như thế nào để tránh sự sáo mòn trong cách cảm, cách
nghĩ, cách thể hiện và làm mới
ngôn ngữ thơ. Trong ý thức sáng tạo, nhà thơ chân chính luôn là người đi trước
tầm đón nhận của bạn đọc ít nhất “nửa vành bánh xe”. Mỗi tác phẩm thơ chân
chính là một phát minh và là một sự nới rộng đường biên thơ. Thơ không chỉ là
câu chuyện tri âm, nói
những điều ai cũng cảm thấy thế nhưng không viết thành thơ được; nhà thơ là
người nói hộ, nói thay những điều đồng điệu ở bạn đọc. Thơ còn khám phá những
điều chưa biết, đặc biệt là những vùng mờ, vùng bí ẩn trong thế giới tinh thần của con người
như vô thức, tiềm thức, tâm linh. Vì vậy ngôn ngữ thơ có khi không dễ hiểu. Đó là tinh thần sáng tạo của các trường phái thơ theo chủ
nghĩa hiện đại mà một thời
nhân danh chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa không ít người đã ra sức phủ nhận.
Với người làm thơ hồn nhiên, viết là để giải thoát suy tư, cảm
xúc. Với bạn đọc bình thường thơ là một thế giới tinh thần để nhập cảm, để tri
âm. Nhưng nếu là nhà thơ chuyên nghiệp sẽ phải hiểu thơ còn là một công trình
nghệ thuật độc đáo, mới lạ về cách cảm, cách nghĩ, cách thể hiện nghệ thuật ngôn từ. Đối tượng hướng tới
của thơ hiện đại phải là bạn đọc hàng đầu. Mỗi bài thơ phải là một tác phẩm
nghệ thuật có tính sáng tạo, đem đến cho bạn đọc những điều mới lạ.
Có thể thực tế sáng tác không theo kịp nhận thức lý luận, nhưng
khi đã ngộ ra nguyên lý của thơ là lạ
hoá, nhà thơ sẽ không cho phép mình viết những câu thường tình, đơn giản,
lặp lại mình, lặp lại người khác. Nguy cơ thường xuyên của thơ là sa vào thường
tình, sáo mòn, không gây nên một sự ngạc nhiên thú vị nào.
1.3. Thơ được sáng tạo
theo nguyên lý nhạc tính
Quan niệm
thơ đã thay đổi rất nhiều theo thời gian nhưng có một nguyên lý bất di bất
dịch: Thơ phải có tính nhạc.
Tính nhạc không chỉ phân biệt thơ với các loại hình nghệ thuật ngôn từ khác mà
còn làm cho mỗi bài thơ là một sinh thể nghệ thuật. Có thể nói mỗi bài
thơ hay thật sự có một cấu trúc nhạc tính riêng.
Trong thơ cũ, tính
nhạc rất khuôn mẫu. Lao động sáng tác của nhà thơ gợi người ta nghĩ đến công
việc soạn lời cho các làn điệu dân ca. Trong thơ hiện đại mỗi bài thơ phải có
tính nhạc độc đáo. Ở mỗi bài thơ hay ta thấy lời thơ được linh cảm về nhạc của
thi sĩ dẫn dắt, nhịp điệu vừa tự do, vừa liên hệ với kết cấu nhạc tính toàn
bài, không vi phạm “luật pháp của âm thanh”, cuốn hút người đọc. Thậm chí nhạc có thể đi trước ngữ nghĩa,
ta chưa kịp hiểu đã cảm thấy hay như trong thơ tượng trưng. Ví dụ tiêu biểu là
tính nhạc của bài thơ Màu thời
gian (Đoàn Phú Tứ). Dù không
hiểu, hoặc hiểu rất ít, nhưng do nhạc tính độc đáo, bài thơ dễ được bạn đọc
đồng tình xem là một trong những tác phẩm hay nhất của phong trào Thơ mới (1932
– 1945).
Một số bài
thơ hiện đại có thể cảm thấy hay mà không cần sự hiểu. Nhưng để cảm được, bài
thơ phải có tính nhạc độc đáo. Có một nguyên lý ai cũng biết là nội dung nào,
hình thức ấy. Mỗi bài thơ phải có một nhạc điệu riêng, không lặp lại. Hình thức thơ tự do không vần là rất
thích hợp với việc tạo nên tính nhạc độc đáo của từng bài thơ. Theo thống kê
của chúng tôi “trong 1144 bài thơ của tuyển tập Thơ Việt Nam 1975-2000 (Nxb Hội Nhà văn, 2001) có 645 bài (56%)
được viết theo thể thơ tự do” [1, tr.185].
Để tạo nhạc tính đặc biệt, một số nhà thơ đã mô phỏng âm thanh các
hiện tượng đời sống bằng yếu tố ngữ âm. Trong bài Noel II Dương Tường đã mô phỏng âm thanh
tiếng chuông đêm Noel:
Em về phố lặng
lòng đổ
chuông
llềnh
llềnh nước
lli
lluang
lloang llưng
lliêng llinh lluông lluông buông boong
Bài thơ có thể gây ấn tượng cầu kì, nhưng là một thể nghiệm
đáng được quan tâm.
Một số người lại cho rằng thơ hiện đại
không phải để ngâm mà là để đọc, nhạc điệu thơ không còn mấy ý nghĩa. Họ làm
thơ mà không quan tâm đến tính nhạc. Lời đã khó hiểu, tính nhạc lại không có
thì lấy gì để truyền cảm?. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho thơ tự đánh mất độc
giả.
1.4. Thơ sử dụng tối ưu các thủ
pháp nghệ thuật
Thơ là một
giá trị tổng hợp, nhưng trước hết là nghệ thuật ngôn từ. Vì vậy các thủ pháp
nghệ thuật có một vai trò rất quan trọng đối với thơ. Trường phái Hình thức Nga có phần cực đoan khi cho nghệ thuật như là thủ pháp nhưng luận
điểm ấy có tác dụng nhấn mạnh bản chất nghệ thuật của thơ. Chất thơ thể hiện
không chỉ ở nội dung trữ tình mà còn ở chỗ nhà nghệ sĩ ngôn từ đã sáng tạo bằng
các thủ pháp nào.
Trên con
đường phát triển thơ vừa tích luỹ các thủ pháp nghệ thuật truyền thống, vừa
không ngừng sáng tạo các thủ pháp mới. Với phong trào Thơ mới (1932-1945) ngoài
những thủ pháp nghệ thuật thơ truyền thống như nhân hóa, so sánh, ẩn dụ… thơ
Việt Nam đã sáng tạo thêm các thủ pháp mới như: Miêu tả khách thể thẩm mỹ một
cách cụ thể, cảm tính (thơ “tả chân”), phức hợp (tương hợp) cảm giác, đặt cạnh
nhau những từ xa nhau về ngữ nghĩa…
Tất
cả kinh nghiệm sáng tạo thi ca cổ, kim, đông, tây… đều có ích nhưng điều quan
trọng là nhà thơ phải sáng tạo
nên những thủ pháp nghệ thuật mới mẻ, mang dấu ấn phong cách riêng. Tư duy thơ tương hợp gắn với tên
tuổi của nhà thơ tượng trưng Pháp Ch. Baudelaire. Hình thơ bậc thang gắn với
Nhà thơ Xô viêt V. Mayacovsky…
Các nhà Hình thức
luận Nga đã vượt qua cách
hiểu văn học gồm hai mặt nội dung và hình thức. Họ đưa ra cặp phạm trù chất liệu và thủ pháp nghệ thuật, đồng thời quan niệm nghệ thuật như là thủ pháp. Cách
hiểu này mở ra những chân trời tự do cho sáng tạo thơ.
Điều cuối
cùng cần nói trong định nghĩa về thơ của chúng tôi là: Thơ “nhằm truyền đến người đọc những
thông điệp trữ tình mới trong một giá trị thẩm mỹ độc đáo”.
Trong thời
kỳ hiện đại đã có những trường phái thơ ra sức triệt tiêu ý nghĩa xã hội, chức
năng giao tiếp của thơ. Sẽ sa vào cực đoan khi xem thơ là lĩnh vực của hình
thức thuần tuý, khép kín. Thơ
không thể vô nghĩa lý, không có một thông điệp gì đến người nghe, người đọc.
Thông điệp ấy có thể là một cảm xúc, một tâm trạng, một suy nghĩ có tính triết
luận, chính luận về cuộc sống và con người có chất thơ. Thông điệp ấy có thể là
một kinh nghiệm thẩm mỹ về cuộc sống, con người và về bản thân ngôn
ngữ. Vấn đề là những thông điệp ấy phải thực sự mới mẻ. Bài thơ dân gian Con cóc là biếm họa điển hình cho loại thơ dở,
không có thông điệp gì đáng nói.
Vấn đề cần
nhấn mạnh là những thông điệp trữ tình mới mẻ ấy phải đến với người đọc trong
một giá trị thẩm mỹ độc đáo. Thơ cần mới và hay. Mục đích sáng tác của nhà thơ
suy cho cùng là tạo ra những giá trị thẩm mỹ độc đáo. Người đọc tìm đến thơ
cũng là để thưởng thức các giá trị ấy. Mới lạ trong thơ là để hay chứ không
phải để mới lạ như một mục đích tự thân. Nhiều người làm thơ hiện nay đang chạy
theo cái lạ mà chưa vươn tới được cái hay. Điều khó hơn nữa của thơ là phải hay
theo một cách riêng, độc đáo không lặp lại.
2. Mấy vấn đề thi
pháp thể loại thơ
2.1. Tứ thơ
Về tứ thơ đã có một số tác giả bàn đến
trong các công trình nghiên cứu, các bài báo bàn về thơ (Xuân Diệu, Mã Giang
Lân, Hà Minh Đức, Bùi Công Hùng, Nguyễn Viết Lãm, Quách Tấn, Phan Huy Dũng…).
Thơ hay do nhiều yếu
tố. Có những bài thơ không có tứ rõ rệt vẫn là thơ hay (Ví dụ bài: Nhớ con
sông quê hương của Tế Hanh. Cả bài thơ là một dòng chảy trữ tình tha thiết.
Khi nói hết thì bài thơ kết thúc. Tứ thơ không rõ rệt, chỉ là sự đối lập giản
đơn quá khứ và hiện tại). Nhưng nhìn chung những bài thơ hay thường có tứ thơ
độc đáo, dễ nhớ.
Các nhà nghiên cứu
rất chú ý đến vai trò của tứ thơ. Côleritgiơ định nghĩa: “Bài thơ là những ngôn từ sáng
giá đứng trong một trật tự hoàn hảo”. Nhà nghiên cứu Phan Ngọc cho rằng: “Thơ là cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái
đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc và phải suy nghĩ do chính
hình thức tổ chức ngôn ngữ này”. (Thực ra phải thay hết sức quái đản bằng
độc đáo. Thơ sáng tạo theo quy luật của cái đẹp. Hết sức quái đản thì đã
ra ngoài địa hạt thơ). Ta đọc ra sự nhấn mạnh của nhà nghiên cứu vào khía cạnh
tứ thơ.
Có thể xác định: Tứ
thơ là cách thức liên kết, cấu trúc mạch vận động, phát triển của ý thơ, của
cảm xúc, suy tưởng và thu hút mọi yếu tố cấu thành của bài thơ nhằm tập trung
thể hiện có hiệu quả nhất chủ đề trữ tình. Nói ngắn gọn tứ thơ là cách cấu trúc
văn bản ngôn từ thơ. Nếu ý thơ (những cảm xúc, suy tưởng) được ví như vật liệu
xây dựng thì tứ thơ là dạng kết cấu công trình kiến trúc thơ.
Chủ đề có thể là một
nhưng sẽ có nhiều bài thơ khác nhau do cách lập tứ khác nhau. Mỗi bài thơ chỉ
có một tứ thơ. Có người nhầm tứ thơ với ý lớn (chủ đề) của bài thơ. Có người
cho rằng trong một bài thơ có thể có nhiều tứ thơ… chứng tỏ không hiểu tứ thơ
là gì.
Nếu hiểu thơ là một
thong điệp nghệ thuật thì nhà thơ phải đầu thai thông điệp ấy trong một tứ thơ
độc đáo, thú vị, thể hiện rõ tài năng sáng tạo của mình. Vì vậy tứ thơ liên
quan trực tiếp đến hiệu quả thẩm mỹ của bài thơ. Nếu chủ đề trữ tình là nói
cái gì? thì tứ thơ là nói bằng cách nào?. Chính nói bằng cách
nào? làm nên chất thơ độc đáo của một văn bản nghệ thuật ngôn từ.
Tứ thơ là một khái
niệm vận động, có khởi đầu, có phát triển và kết thúc. Trong đó kết thúc có vai
trò quan trọng. Kết thúc nâng bài thơ lên một tầng cao mới về ý nghĩa khái
quát, về hiệu quả thẩm mỹ. Ví dụ hai câu kết của bài thơ Tiếng bom ở Seng
Phan (Phạm Tiến Duật):
Tôi ở xa Seng Phan
Nghe bom dội đêm
ngày
Âm i tiếng tàu bay
Dội vào trong trí
nhớ
Tôi đến gần Seng
Phan
Nghe cây ầm ầm đổ
Cốc chén chẳng nằm
yên
Lung lay cả ngọn
đèn
Tiếng bom như
tiếng thú
Tôi đứng giữa Seng
Phan
Cao hơn tiếng bom
là khe đá, tiếng đàn
Là tiếng mìn công
binh phá đá
Là tiếng điếu cày
rít lên thong thả
Tiếng oai nghiêm
xe rú máy bên đường
Thế đấy, giữa
chiến trường
Nghe tiếng bom rất
nhỏ.
Tứ thơ được hình
thành do tài năng sáng tạo của nhà thơ. Nhiều bài thơ ta có thể quên lời nhưng
không thể quên cái tứ độc đáo của nó.
Mặc dù vậy có tứ thơ
hay chưa đủ. Tứ thơ còn phải hoà quyện với tình ý, hình ảnh và càng kín đáo
càng tốt. Bàn về thơ, Lê Quý Đôn có lời khuyên: “Mạch kị thẳng, ý kị lộ”. Đây
là một ý kiến rất tinh tế. Nếu không có tứ, bài thơ sa vào tản mạn, ngược lại
có tứ mà không được bồi đắp bằng ngôn ngữ hình tượng sinh động thơ sẽ khô khan.
Tứ thơ cần tự nhiên
tránh gò ép. Bài thơ Mặt quê hương của Tế Hanh có tứ nhưng vẫn còn gây
cảm giác bị gò ép vào một cái khung có sẵn là so sánh tương đồng:
Mặt em như tấm
gương
Anh nhìn thấy quê
hương
Kìa đôi mắt, đôi mắt
Dòng sông yêu
trong vắt
Kìa vầng trán
thanh thanh
Khoảng trời xưa
trong lành
Miệng em cười tươi
thắm
Như vườn xanh nắng
ấm
Hơi thở em chan
hoà
Như không khí quê
ta
…
Ôi chín năm nhớ
thương
Mặt em là quê hương.
Tứ thơ vận động nhờ liên tưởng. Liên tưởng là những mạch ngầm nối liền các
chi tiết, hình ảnh, ý thơ thành một sinh thể thống nhất trong quá trình vận
động của tứ thơ. Liên tưởng tự nhiên, phóng khoáng thơ sẽ hay. Liên tưởng gò
ép, rời rạc bài thơ sẽ không thành một sinh thể nghệ thuật.
Một số dạng cấu trúc tứ thơ
Tứ thơ vô cùng phong
phú, đa dạng do yêu cầu về tính độc đáo của thơ. Mỗi bài phải có một tứ thơ
không lặp lại ở đâu cả. Tuy nhiên trong thực tiễn sáng tạo thơ ta thường gặp
một số dạng tứ thơ chính sau đây.
Cấu trúc tứ thơ dạng qui nạp (từ cụ thể đến khái quát)
Ở những bài thơ có
mục đích thuyết phục người đọc một tư tưởng nào đó, tác giả thường lập tứ vận
động từ cụ thể đến khái quát. Bài thơ Tiếng bom ở Seng Phan (Phạm Tiến
Duật) đã dẫn ở trên là một thí dụ tiêu biểu. Bài thơ Tấm ảnh (Tố Hữu) có
thể xem là một thí dụ tiêu biểu khác:
Cô du kích nhỏ
dương cao súng
Thằng Mỹ lênh
khênh bước cúi đầu.
Ra thế! To gan hơn
béo bụng
Anh hùng đâu phải
cứ mày râu.
Ở những bài thơ có tứ
vận động từ cụ thể đến khái quát kết thúc thường là những triết lý về cuộc sống
và con người.
Cấu trúc tứ thơ dạng diễn dịch (từ khái quát đến cụ
thể)
Có thể so sánh loại
tứ thơ này với thao tác diễn dịch trong logíc. Nhà thơ đưa ra một triết lý về
đời sống rồi diễn dịch bằng nhiều luận điểm. Tiêu biểu là bài thơ Tổ quốc
bao giờ đẹp thế này chăng (Chế Lan Viên):
Tổ quốc bao giờ
đẹp thế này chăng?
Chưa đâu ngay cả
những khi đất nước mình đẹp nhất
Khi Nguyễn Trãi
làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết
Kiều đất nước hoá thành văn
Những ngày ta sống
đây là những ngày đẹp hơn tất cả
Dù mai sau đời
muôn vạn lần hơn
Trái cây rơi vào
áo người ngắm quả
Đường nhân loại đi
qua những bóng lá xanh rờn
Mặt trời đến mỗi
ngày như khách lạ
Gặp mỗi mặt người
đều muốn ghé môi hôn.
Cấu trúc tứ thơ dạng đối lập
Đối lập là thao tác tư duy quen thuộc của con
người. Tứ thơ đối lập có tác dụng làm nổi bật chủ đề trữ tình của bài thơ. Ví
dụ bài thơ Hai câu hỏi (Chế Lan Viên):
Ta là ai? Như ngọn
gió siêu hình
Câu hỏi hư vô thổi
nghìn nến tắt
Ta vì ai? Sẽ xoay
chiều ngọn bấc
Bàn tay người thắp
lại triệu chồi xanh.
Tứ thơ dạng đối lập
được các nhà thơ sử dụng khá phổ biến. Tứ thơ bài Từ cánh cổng - hố bom của tôi đã được cấu trúc theo dạng đối lập:
Như
tôi có lời chào
Căn
nhà tôi có cổng.
Thuở
nhỏ mẹ đi vắng
Khi
nhập nhoạng tối trời
Nơi
đây chờ ngóng mẹ
Tôi
khóc cùng em tôi.
Lũ
bạn rủ đi học
Cắp
sách đứng đây chờ.
Có
lần nghe tiếng gọi
Bỏ
nửa chừng cơm trưa.
Nơi
đây tiễn bạn gái
Nhìn
nhau không muốn rời
Lời
yêu em muốn nói
Trăng
ngập ngừng như tôi.
Nơi
bậc đá nhẵn trơn
Những
dấu chân tần tảo.
Dặn
con cài khuy áo
Mẹ
đi vào rạng đông.
Nơi
chiều chiều tôi đứng
Mướt
mát xanh lúa đồng.
Đôi
cánh cò trắng muốt
Đo
trời xanh mênh mông.
Giờ
cánh cổng thân thương
Chỉ
còn trong kỷ niệm.
Những
mảnh gỗ nát tươm
Quanh
hố bom sâu hoắm.
Tiễn
tôi nơi mẹ đứng
Những
cột nhà cháy đen.
Vai
em mười bảy tuổi
Mũi
súng trường mọc lên.
Đường
đi học đi làm
Từ
bình minh cánh cổng.
Đường
tôi ra mặt trận
Bắt
đầu từ hố bom…
1970-1980
Cấu trúc tứ thơ dạng tương đồng
So sánh tương đồng là
một thao tác tư duy thường xuyên của con người. Só sánh làm nổi bật đối tượng
nhận thức. Tứ thơ dạng tương đồng có tác dụng làm nổi bật chủ đề trữ tình. Ví
dụ như bài thơ Không đề trong dân ca Triều Tiên:
Khi trên khung cửi
chỉ đứt
Cần mẫn em ngồi
Dùng răng dùng môi
Hai đầu nối lại
Khi đứt chỉ tình
yêu, ơi cô gái
Em cũng nên làm
như thế đừng quên.
Cấu trúc tứ thơ dạng ý tại ngôn ngoại
Đây là loại tứ thơ
đặc biệt tinh tế. Với loại tứ thơ này độc giả phải nhận ra nghĩa bóng của bài
thơ. Điều đó kích thích tính đồng sáng tạo của người đọc làm nên nét thú vị
riêng. Ví dụ bài thơ Người mù của Vaxili Fêđôrôp (Nga):
Không nhìn thấy
những người đi trước mình
Không bị ghế của
vườn hoa quyến rũ
Một người mù đi
trên đường phố
Dò dò từng bước
bằng chiếc gậy con
Người ta xô lấn
anh, qua mặt, dành đường
Anh bị lấn giữa
vội vàng chen chúc
Có thể quát to lên
với những người có mắt:
-Hãy biết thương
tình, chớ lấn chen
Nhưng không tôi
nghe rõ tiếng anh
Nhỏ nhẹ giữa ồn ào
phố xá:
-Hãy cứ lấn chen,
chẳng hề gì cả
Để tôi biết cạnh
tôi đang có mọi người.
(Phạm Quốc Ca dịch)
Trong thơ cổ Việt
Nam, bài Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương thuộc loại tứ thơ này:
Thân em vừa trắng
lai vừa tròn
Bảy nổi ba chìm
với nước non
Rắn nát mặc dù tay
kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm
lòng son.
Cấu trúc tứ thơ dạng song song
Các khổ thơ được
trình bày song song với nhau trong đó có một thành phần điệp ngữ. Tính lặp lại
có quy luật làm nên cấu trúc độc đáo của bài thơ. Có thể kể tên một số bài thơ
thuộc dạng này như: Mùa lá rụng (Olga Bergholts- Nga), Những cặp mắt
đen (Cupala- Belaruxia). Ví dụ bài thơ Nhớ (Phạm Quốc Ca):
Sao cứ nhớ những
phương trời chưa đến?
Xứ lạ quê người
thấp thoáng trong mơ
Biển rộng trước
ngực trần đón gió
Cánh buồm xa phấp
phới như cờ
Sao cứ nhớ những
người chưa gặp?
Đâu đó chờ ta nồngnhiệt,
ân tình
Đâu đó chờ ta dịu
dàng, đằm thắm
Tình yêu bè bạn,
anh em.
Sao như kẻ suốt
đời không yên ổn?
Chốn quen thân- sách cũ đọc rồi
Ta ở nơi này, hồn nẻo khác
Nhớ những ngày chưa sống khôn nguôi
Còn rất nhiều kiểu tứ
thơ độc đáo, giàu tính sáng tạo khác cần phải được tiếp tục tìm hiểu. Ví dụ
trong thơ hiện đại còn có những bài thơ được cấu trúc theo tính nhạc (tiêu biểu
là bài Màu thời gian của Đoàn Phú Tứ ).
Việc nhận diện các dạng tứ thơ rất có ích cho người sáng tác lẫn nghiên cứu.
2.2. Ngôn ngữ thơ
Ngôn ngữ thơ có đặc trưng
riêng: Đó là ngôn ngữ có tính song trùng, vừa là phương tiện, vừa là mục đích.
Các nhà hình thức luận Nga cho rằng: “Thơ
là ngôn ngữ tự lấy mình làm cứu cánh”…
“Thơ là phát ngôn nhắm vào cách phát biểu”
(R.Jacobson).Thơ hay do nhiều nguyên nhân nhưng thể hiện rõ nhất ở tài năng sử
dụng ngôn ngữ của nhà thơ. Nó là kết tinh của lao động sáng tạo:
Phải phí tốn ngàn
cân quặng chữ
Để thu về một chữ
mà thôi
Nhưng chữ ấy làm
cho rung động
Triệu trái tim
trong hàng triệu năm dài
(Maiakovski)
Đỗ Phủ có một châm
ngôn mà mọi người làm thơ đều tâm đắc: “Ngữ
bất kinh nhân, tử bất hưu” (Lời
thơ chưa làm cho người đọc kinh ngạc, thán phục, đến chết chưa thôi lao động
sáng tạo).
Tựu trung ngôn ngữ
thơ có một số đặc điểm chính sau đây:
2.2.1. Tính hàm súc
Hàm súc là súc tích,
hàm chứa. Ngôn ngữ thơ phải thật cô đọng, ít lời mà nói được nhiều ý, ý ở ngoài
lời, gợi nhiều liên tưởng. Có thể ví công việc làm thơ với việc giải một bài
toán tối ưu sao cho ít lời mà giá trị biểu hiện được nhiều nhất. Thơ Trung đại
phương Đông là mẫu mực cho tính chất hàm súc. Các thể thơ haikư 17 âm tiết,
tanka 31 âm tiết (Nhật Bản), tứ tuyệt 20 hoặc 28 âm tiết (Trung
Hoa), Ả Rập, Ba Tư cũng có thơ 4 câu. Đó là thể thơ rubai. Thể thơ sijo của Triều Tiên chỉ 3 câu. Thơ dân
gian Việt Nam có khi chỉ 2 câu: “Ai về
Giồng Dứa qua truông/ Gió đưa bông sậy bỏ buồn cho em”. Nhà thơ Dương Tường
từng viết bài thơ một câu: “Tôi đứng về phe nước mắt”. Đó là những thí
dụ tiêu biểu cho tính hàm súc của thơ. Thơ hiện đại đã giải phóng cho nhà thơ
khỏi những ràng buộc quá chặt chẽ về câu chữ niêm luật nhưng mặt trái của nó là
dễ sa vào dàn trải, thiếu chắt lọc. Có người nhận xét rằng trong một số bài thơ
của Lưu Trọng Lư thời kỳ Thơ mới 1932-1945 có thể bỏ đi một số khổ thơ mà cũng
không ảnh hưởng gì.
Các nhà thơ rất chú ý
đến tính hàm ngôn của lời thơ. Lê Đạt đã viết:
Thu nở bầy chim
mây vỡ tổ.
Câu thơ này có thể
đọc với nhiều phương án ngắt nhịp khác nhau và cho ta những cách hiểu khác
nhau.
2.2.2. Tính đa nghĩa
Tính đa nghĩa của thơ
không chỉ do yếu tố chủ quan của người tiếp nhận theo nguyên lý: Tác phẩm văn
học = văn bản + người đọc. Tính đa nghĩa còn do đặc trưng của ngôn ngữ thơ. Quan
điểm của nhà thơ càng kín đáo bao nhiêu càng có lợi cho tác phẩm nghệ thuật bấy
nhiêu. Đặc trưng của tư tưởng nghệ thuật là toát ra từ hình tượng, tình huống,
chi tiết. Chúng kích thích, khêu gợi người đọc để họ tự rút ra một tư tưởng nào
đó. Tính mơ hồ, đa nghĩa của ngôn ngữ văn học tạo điều kiện cho người đọc đồng
sáng tạo. Tạ Trăn (đời Minh) từng phát biểu: “Thơ có chỗ có thể giải thích, có chỗ không thể giải thích, có chỗ không
cần giải thích như hoa dưới nuớc, trăng trong gương". Một nhà thi học
đồng thời là nhà thơ là Vương Sĩ Trinh cũng nói: “Thơ khó ở chỗ không giải thích được thì vô vị, giải thích được thì hết
vị”. Các nhà thơ trong nhóm Xuân Thu
nhã tập quan niệm: “Thơ không phải
lúc nào cũng rõ nghĩa vì nó không chủ động trong địa hạt ý nghĩa; không phải
lúc nào cũng sáng sủa vì nó không vụ cái phần sáng sủa của tâm linh, nó giữ
phần sâu kín, nó giữ phần sâu sắc”. Tính đa nghĩa không phải là dấu hiệu
non kém về nghệ thuật mà phải được xem là đặc trưng của ngôn ngữ thơ. Một số
hiện tượng thơ đã phải tốn rất nhiều giấy mực để tìm hiểu như Thề non nước (Tản
Đà), Tống biệt hành (Thâm Tâm), Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Từ). Ví
dụ khổ thơ cuối trong bài Tống biệt hành:
Người đi, ừ nhỉ, người đi thực
Mẹ thà xem như
chiếc lá bay
Chị thà xem như là
hạt bụi
Em thà xem như hơi
rượu say
Có nhà nghiên cứu
hiểu người ra đi xem mẹ như chiếc lá bay, chị như là hạt bụi, em như hơi rượu
say. Phải hiểu ngược lại mới đúng, bởi Nguyễn Bính cũng đã từng viết:
Thầy đừng nhớ, mẹ đừng thương
Coi như đồng kẽm ngang đường đánh rơi
2.2.3. Tính biểu cảm
Tính biểu cảm của
ngôn ngữ thơ nằm trong bản chất thể loại. Thơ là một hình thức giao tiếp đặc
biệt: Từ trái tim đến trái tim. Có nhiều hình thức biểu cảm:
- Biểu cảm trực
tiếp (thường đi với thán từ):
Hôm nay lạnh mặt
trời đi ngủ sớm
Anh nhớ em, em
hỡi, anh nhớ em!
(Xuân Diệu)
- Biểu cảm gián
tiếp:
Nhà thơ dùng hình
ảnh, hình tượng vẽ nên một bức tranh về đời sống để khơi gợi ở người đọc cảm
xúc tương đồng. Gợi ý, gợi cảm là bí quyết của thơ phương Đông:
-Xuân triều, đới
vũ vãn lai cấp
Dã độ vô nhân chu
tự hoành
(Mưa dịp chiều
xuân, trời sập tối
Chiếc đò quạnh
vắng tự quay ngang)
(Trừ Châu tây giản-
Vi Ứng Vật)
-Đình thụ bất tri
nhân khứ tận
Xuân lai hoàn phát
cựu thời hoa
(Cây trước sân
không biết người đi hết
Xuân về vẫn nở bấy
nhiêu hoa)
(Sơn phòng xuân sự-
Sầm Tham)
Nguyễn Bính đã có
những câu thơ truyền cảm gián tiếp thật tuyệt bút:
- Giếng thơi, mưa ngập, nước tràn
Ba gian đầy cả ba
gian nắng chiều
2.2.4. Tính hình tượng
Trong thực tế, có
những bài thơ hay mà ngôn ngữ như lời nói thẳng (ví dụ như bài thơ Tôi yêu em của A.Pushkine) nhưng ngôn
ngữ thơ thường có tính hình tượng. Đó là khả năng tái hiện những hiện tượng
cuộc sống một cách sinh động bằng những bức tranh gợi hình, gợi cảm. Ngôn ngữ
có hình tượng là ngôn ngữ giàu hình ảnh, tạo hình, âm thanh, màu sắc, có khả
năng gây ấn tượng mạnh mẽ vào trí tưởng tượng và cảm nhận của người đọc. Nổi bật
trong thơ là hình tượng thị giác:
- Gió thổi
rừng tre phấp phới
(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
- Mặt trời bơi
trên mặt hồ như một con thiên nga đỏ
(S. Exenin)
- Ôi sông Lô nước
xanh
tròng trành mảnh
nguyệt
- Bình Ca sương
xuống
lạc con đò
(Trần Dần)
- Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu
lập lòe đâm bông
(Kiều – Nguyễn Du)
Hình tượng thị giác phổ biến nhất trong thơ. Trong một số trường hợp nhất định hình tượng thơ có
thể trở thành biểu tượng thơ như đầu súng trăng treo (Chính Hữu).
Có thể nói đến hình
tượng thính giác trong thơ:
Chập chùng thác
Lửa, thác Chông
Thác Dài, thác
Khó, thác Ông, thác Bà
Thác, bao nhiêu
thác cũng qua
Thênh thênh là
chiếc thuyền ta trên đời
(Nước non nghìn dặm- Tố Hữu)
2.2.5. Tính mới lạ
Một trong những đặc
điểm quan trọng nhất của ngôn ngữ thơ hiện đại là tính mới lạ.Điều này nằm
trong bản chất sáng tạo của thơ. Dưới thời Trung đại, người làm thơ thường mô
phỏng tiền nhân. Trong thơ hiện đại tính mới lạ phải trở thành phẩm chất bắt
buộc. Xuân Diệu từng tuyên ngôn:
- Lòng rộng quá
chẳng chịu khung nào hết
- Khinh rẻ khuôn
mòn, bỏ lối quen
Trong giai đoạn Thơ
mới 1932-1945 ngôn ngữ thơ ông đầy tính sáng tạo. Có thể dẫn ra một số thí dụ
như:
- Trăng rất trăng
là trăng của tình duyên
- Chiều goá không
em lạnh lẽo sao!
- Này lắng nghe em
khúc nhạc thơm
- Mùi tháng năm
đều rớm vị chia phôi
Từ Thơ mới trở đi, thơ Việt Nam có những kết hợp từ thật mới lạ: xuân
không mùa, biển pha lê, đêm thủy tinh, lệ ngân (Xuân Diệu), hương phản
trắc (Đinh Hùng), Lẵng xuân/ bờ giũ trái xuân sa/ Đáy đĩa mùa đi nhịp
hải hà (Nguyễn Xuân Sanh). Cần lưu ý rằng cái lạ chưa bao hàm cái mới. Đôi
khi người ta đã nhầm cái lạ với cái mới, đánh giá cao cả những câu thơ được
viết khi tác giả bị bệnh thần kinh:
Một hôm gầu guốc
gầm ghì
Hai hôm gần gũi
cũng vì ba hôm
Bom ha, đạn hả bao gồm
Bồm gao gạo đỏ bỏ
gồm gạo đen
(Bùi Giáng)
2.2.6. Tính nhạc
Tính nhạc làm cho bài
thơ trở thành một sinh thể nghệ thuật đồng thời làm nên tính độc đáo của ngôn
ngữ thơ.Tính nhạc của ngôn ngữ thơ đã được ý thức từ xa xưa nhưng đó là thứ
nhạc khuôn mẫu trong các thể thơ đã được luật hóa. Vào thời kỳ hiện đại, các
nhà thơ lãng mạn và đặc biệt là các nhà thơ tượng trưng đã hết sức đề cao nhạc
tính. P.Verlaine cho rằng trong thơ “nhạc đi trước mọi sự”. Nguyên lý thơ E.Poe cho rằng: “Trong sự kết hợp thơ với nhạc, trong ý nghĩa
phổ biến, chúng ta có thể tìm thấy phạm vi rộng rãi nhất cho sự phát triển của
thơ”. Bài thơ Những tiếng chuông
(The bells) của ông rất độc đáo về tính nhạc:
Hear the sledges with the bell
Silver bells
What a world of meriment their melody foretells!
How they tinkle, tinkle, tinkle,
In the icy air of night!
While the star that oversprinkle
All the heavens seem to twinkle
With a crystalline delight…
(Vọng lại tiếng những chiếc xe trượt tuyết và những
tiếng chuông/ Những tiếng chuông bạc/ Giai điệu của chuông báo tin một thế giới
hân hoan/ Những tiếng kêu leng keng không dứt trong màn đêm lạnh giá/ Trong khi
cả bầu trời sao chi chít lấp lánh niềm vui pha lê…)
Theo E.Poe, “làm thơ
là sáng tạo nhịp điệu của cái đẹp”. Trong thơ Việt Nam không ít thí dụ về những
câu thơ có tính nhạc độc đáo:
- Đùng đùng gió dục mây vần
Một xe trong
cõi hồng trần như bay
(Kiều –
Nguyễn Du)
- Tài cao phận thấp chí khí uất
(Tản Đà)
- Sương nương theo trang ngừng lưng trời
Tương tư nâng
lòng lên chơi vơi
(Xuân Diệu)
Cần lưu ý rằng làm
nên tính nhạc của thơ không chỉ do vần mà còn do nhịp và thanh điệu. Không hiểu
điều này, trong cuộc tranh luận nghệ thuật ở Việt Bắc năm 1949 nhiều người đã
phê phán bất công các bài thơ tự do không vần của Nguyễn Đình Thi. Thực ra phải
ghi nhận đây là một nỗ lực hiện đại hóa thơ.
2.3.Các thủ pháp nghệ
thuật
Thơ là loại hình nghệ
thuật ngôn từ. Các thủ pháp nghệ thuật có vai trò vô cùng quan trọng trong sáng
tạo thi ca. Đó là các cách sử dụng ngôn ngữ có nghệ thuật nhằm gây hiệu quả
thẩm mỹ. Thơ là chức năng thẩm mỹ của ngôn từ. Sau đây là một số thủ pháp nghệ
thuật tiêu biểu.
2.3.1. So sánh
So sánh là phương
thức diễn đạt tu từ khi đem hiện tượng,
sự vật này đối chiếu với sự vật, hiện tượng khác trên cơ sở một nét tương đồng
nào đó để tạo cảm xúc thẩm mỹ. Có nhiều cách so sánh trong thơ:
- So sánh cái trừu tượng với
cái cụ thể:
-Sáng hôm nay hồn
em như tủ áo
Ý trong veo là
lượt xếp từng đôi
(Huy Cận)
- Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
(Xuân Diệu)
- Lòng anh như dã quỳ đến hẹn
Vàng rực mùa hoa chờ em
(Hoa chờ em -
Phạm Quốc Ca)
- So sánh cái cụ thể với cái trừu tượng:
- Lá phong đỏ như
mối tình đượm lửa
(Tế Hanh)
- Chiều xanh như
nỗi nhớ nhà
(Nguyễn Duy)
- Cánh buồm giương
to như mảnh hồn làng
(Tế Hanh)
- Hải Vân cao như chất bằng gian nan.
(Hát trên đèo
Hải Vân- Phạm Quốc Ca)
- Mây trắng mỏng như một thoáng mơ màng
(Mùa xuân ở
chốt- Phạm Quốc Ca)
- So sánh cái cụ thể với cái cụ thể:
- Tiếng rơi rất
mỏng như là rơi nghiêng.
(Trần Đăng Khoa)
- Tiếng suối trong
như tiếng hát xa.
(Hồ Chí Minh)
- Thương mầm giống
cựa mình trong cát bỏng
Tát nước lên đồng
như cho trẻ uống.
(Phạm Quốc Ca)
- So sánh xa:
- Em như con hạc đầu đình
Muốn bay không cất nổi mình mà bay
(Ca dao)
- Tôi là con nai bị chiều đánh lưới
Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối
(Xuân Diệu)
- So sánh mở rộng:
- Con gặp lại nhân
dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ
đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng
bỗng gặp cánh tay đưa
(Chế Lan Viên)
Trong thực tế thủ
pháp so sánh được các nhà thơ sử dụng rất biến hoá:
- Có thể bớt cơ sở so sánh:
Em đi (buồn vắng) như chiều đi
Gọi chim vườn bay
hết
(Chế Lan Viên)
- Đảo ngược trật tự so sánh:
Như tôi có lời
chào
Căn nhà tôi có
cổng
(Phạm Quốc Ca)
- Bớt từ so sánh:
- Bố
Mặt trời nóng nực
và ồn ã
Con muốn gần lại
sợ tan ra
Mẹ
Mặt trăng xa
Con ngần ngại cận
kề
Con
Vì sao lạc giữa
Lớn lên và sáng
bằng nước mắt
(Những đối lập- Vi Thuỳ Linh)
- So sánh hơn- kém:
Mong manh áo vải
hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng
phơi những lối mòn
(Tố Hữu)
- Thêm bao nhiêu… bấy nhiêu:
Lòng em như chiếc
lá khoai
Đổ bao nhiêu nước
ra ngoài bấy nhiêu
(Nguyễn Bính)
2.3.2. Ẩn dụ
Ẩn dụ là phương thức
chuyển nghĩa lấy sự vật, hiện tượng này thay cho sự vật hiện tượng khác khi hai
sự vật, hiện tượng có một nét tương đồng. Ẩn dụ thực chất là so sánh ngầm trong
đó cái so sánh ẩn đi, chỉ còn cái được so sánh. Ví dụ:
- Chỉ có thuyền
mới hiểu
Biển mênh mông
nhường nào
Chỉ có biển mới
biết
Thuyền đi đâu về
đâu
(Xuân Quỳnh)
Nhiều bài thơ sử dụng
thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ nổi tiếng như: Bình
vỡ (Prudhomme), Chim hải âu
(Baudelaire), Chiều mùa gieo hạt (V.
Hugo)…
2.3.3. Hoán dụ
Hoán dụ là thủ pháp
dùng một sự vật, hiện tượng thay thế cho một sự vật, hiện tượng khác hoặc dùng
cái bộ phận để thay thế cho cái toàn thể:
-Búa liềm không sợ
súng gươm bạo tàn
(Tố Hữu)
-Một tay gây dựng
cơ đồ
Bấy lâu bể Sở,
sông Ngô tung hoành
(Kiều - Nguyễn Du)
-Dõi mắt phương con ì ầm tiếng nổ
Lòng mẹ ngày nào cũng bị ném bom
(Phạm Quốc Ca)
- Cây rơm ướt bên hàng xoan trụi lá
Con bò gầy rút từng sợi mùa đông.
(Phạm
Quốc Ca)
2.3.4. Nhân hoá
Nhân hoá là thủ pháp gán cho cái trừu tượng hoặc những sinh vật, những vật
vô tri những đặc tính của con người:
- Bác giun đào đất suốt ngày
Hôm nay chết ở vườn cây sau nhà
Họ hàng nhà kiến kéo ra
Kiến con đi trước kiến già theo
sau
Cầm hương kiến cụ bạc đầu
Khóc than kiến cánh khoác màu áo
tang
(Đám ma bác giun-
Trần Đăng Khoa)
- Cạnh nhà tôi có
ba cây thông
Ba thiếu nữ tóc
xanh
Bí ẩn chơi ba cây
đàn gió
Những trưa nắng
tôi ngồi bên cửa sổ
Du dương điệu nhạc
của trời.
(Ba cây thông- Phạm
Quốc Ca)
2.3.5. Phóng đại (ngoa dụ, khoa trương, thậm xưng)
Là phương thức cường điệu mức độ, tính chất, đặc điểm nào đó của sự vật,
hiện tượng:
- Lỗ mũi mười tám gánh lông
Chồng yêu chồng bảo tơ hồng trời cho.
(Ca dao)
- Bác ngồi đó lớn mênh mông
Trời xanh, biển rộng, ruộng đồng, nước non.
(Tố Hữu)
2.3.6. Chơi chữ
Là thủ pháp nghệ thuật sử dụng các đặc điểm ngữ âm, ngữ nghĩa tiếng Việt để
tạo ấn tượng thẩm mỹ thú vị. Thủ pháp chơi chữ trong thơ vô cùng đa dạng. Sau
đây chỉ là mấy ví dụ:
- Túc Vinh mà để ta mang nhục
(Hồ Chí Minh)
- Vườn nắng mắt gió bay mùa hoa cải
Bóng lá răm ngày Phả Lại đắng cay.
(Lê Đạt)
- Mimoza chiều khép cánh mimôixa.
(Lê Đạt)
- Nước non Ngoạn Mục ngoằn ngèo
đèo sương.
(Phạm Quốc Ca)
2.3.7. Điệp ngữ, điệp từ
Đây là chỗ thơ khác với văn xuôi. Văn xuôi cần tránh sự trùng lặp. trong
khi đó thơ lại sử dụng phép lặp (điệp từ, điệp ngữ) như một thủ pháp nghệ
thuật:
Trên cánh đồng hoang thuần một
màu.
Trên cánh đồng hoang dài đến nỗi
Tàu chạy mau mà qua rất lâu
Tàu chạy mau tàu chạy rất mau
Ngựa rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu.
(Cánh đồng, con ngựa, chuyến tàu -
Tô Thùy Yên)
- Bên xanh biển, bên xanh đồng
lúa
Hồn tôi xanh ngày xanh tháng
Giêng
(Phạm Quốc Ca)
2.3.8. Tính từ hóa danh từ
Đây là một thủ pháp nghệ thuật thơ tinh tế và
thú vị. Trong nghệ thuật đôi khi điều không thể đã thành có thể. Ai cũng biết
danh từ và tính từ có đặc điểm và chức năng khác nhau nhưng nhà thơ có thể dùng
danh từ như một tính từ:
-Dừng xe mà ngỡ ngàng yêu
Nước non Ngoạn Mục ngoằn ngoèo
đèo sương
(Lên đèo – Phạm Quốc Ca)
Ngoạn Mục là danh từ riêng, tên một con đèo đã
biến thành tính từ chỉ phẩm chất kiến câu thơ rất thú vị.
2.3.9. Động từ hóa tính từ
Thơ đòi hỏi sự sự sáng tạo, táo bạo trong dùng từ. Động từ hoá tính từ là
một cách lạ hoá ngôn ngữ thú vị:
- Mùa đông Nga muôn thủa
Trắng hồn tôi lần đầu
Tuổi bốn mươi rất thực
Tôi lạc miền chiêm bao.
(Tuyết- Phạm Quốc Ca)
2.3.10.
Đảo vị trí từ loại
Trong tiếng Việt từ loại: danh từ, động từ , tính từ, trạng từ... có vị trí
nhất định trong câu. Chỉ trong câu văn nghệ thuật và đặc biệt là trong thơ, người nghệ sĩ ngôn từ mới có tự do đảo
vị trí từ loại để lạ hoá:
- Pháo dội đinh tai
Căn hầm nhang nháng lửa
Mặt trời lòa đi trong khói đen
(Mùa Xuân ở chốt – Phạm Quốc Ca)
2.3.11.Cụ thể hóa cái trừu tượng
Thơ gần với những gì mang tính cụ
thể, cảm tính. Cụ thể hoá cái trừu tượng là một thủ pháp nghệ thuật có hiệu quả
thẩm mỹ cao. Ví dụ những câu thơ sau đây về thời gian:
Những toa vô hình
Con tàu không tiếng
Lặng lẽ trôi về ga cuối không màu
Không vé khứ hồi hai lần tuổi trẻ
Sao cược đời mình vào những không
đâu.
Bông hồng tôi yêu hôm nào chớm nụ
Đã rụng đỏ bầm những mảnh thời
gian
Ngày cứ mỏng dần đi theo bóc lịch
Mây trắng ngang trời
Lại sắp xuân sang.
(Thời gian – Pham Quốc Ca)
Ngoài ra còn có thể
nói đến một số thủ pháp nghệ thuật khác như: Tập Kiều, lẩy Kiều, nói giảm, tỉnh
lược…Các thủ pháp nghệ thuật thơ không ngừng được sáng tạo và ngày càng hiện
đại.
Đà Lạt, tháng 6 -2018
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm
Quốc Ca, Mấy vấn đề về thơ
Việt Nam 1975-2000, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2003.
2. Hà Minh
Đức, Thơ và mấy vấn đề trong
thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974.
3. Tố Hữu,
Xây dựng một nền văn nghệ lớn, xứng đáng với nhân dân ta, với thời đại ta, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội,1973.
4. Đông La,
Biên độ của trí tưởng tượng, Nxb
Thanh niên, Hà Nội, 1997.
5. Mã
Giang Lân, Tìm hiểu thơ, Nxb
Thanh niên, Hà Nội, 1997.
6. Phan
Ngọc, Thơ là gì?, Tạp chí Văn học, số 1, Hà Nội,
1991.
7. Huỳnh
Như Phương, Trường phái hình
thức Nga, Nxb Đại học quốc gia TP.Hồ Chí Minh, 2007.
8. R.Jacobson, Questions de Poétique, Le Seuil, Paris,
1973.
9. Nguyễn Minh Tấn (Chủ biên), Từ trong di sản, Nxb Tác phẩm
mới, Hà Nội, 1987.
10. Đặng Tiến, Thơ
thi pháp & chân dung, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 2009.
11. Chế Lan Viên, Bay
theo đường dân tộc đang bay, Nxb Văn học Giải phóng,
1976.