(Đọc "Thơ Đồng Nai" của Huỳnh
Văn Nghệ)
PGS - TS. Đoàn Trọng Huy
Trong tay tôi hiện giờ là cuốn tặng phẩm - tập Thơ Đồng Nai của Huỳnh Văn Nghệ. Tập
thơ ấn phẩm của Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, in xong và nộp lưu chiểu tháng
12/2014. Đây là tái bản của bản gốc Thơ Đồng Nai do Đoàn Văn hóa Kháng
chiến Biên Hòa ấn hành (Nhà xuất bản Tiếng rừng, 1949). Sau 65 năm trôi
dạt, hai di vật ấn bản được sưu tầm, đối chiếu, xác minh, được in lại vào dịp
kỷ niệm 100 năm ngày sinh Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ.
Kỷ vật của gia đình, cũng là
chứng tích lịch sử của văn hóa Đồng Nai. Tôi đã đọc tập thơ với một hứng thú và
cảm thức lịch sử,
với tâm thế của người có trải nghiệm
không khí lịch sử, từ đó nhận ra giá trị đặc sắc
của tập thơ.
***
Huỳnh Văn Nghệ lớn lên trong một
gia đình nghèo nhưng giàu lòng yêu nước. Người cha giỏi võ, luyện võ thuật và
nghĩa khí cho trai tráng vùng quê. Bà mẹ thường kể
chuyện nghĩa quân, và hát ru con bằng Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn
Đình Chiểu.
Anh thanh niên có học, nên hiểu
biết thêm về quê hương, đất nước mình và nặng lòng với truyền thống lịch sử:
Đồng Nai sông nước anh hùng
Người xa, xa tận núi rừng hoang vu
Đồng Nai - 1948
Câu thơ mở đầu gợi ra những trang hào
hùng của một vùng đất mới được hình thành đã 300
năm.
Trong lòng nhà thơ chắc hẳn có
những kỷ niệm khắc ghi về chiến công khai hoang phá rậm của bao thế hệ, để có
mảnh đất làm ăn, sinh sống ngày nay. Đất Đồng Nai cũng là nơi diễn ra những
chiến tích của nghĩa quân chống Pháp một thời với những tên tuổi lẫy lừng khí
phách của Nguyễn Tri Phương, Trương Định.
Truyền thống nghĩa khí can
trường của con người Miền Đất Mới đã hun đúc tâm trí chàng trai trẻ Huỳnh Văn
Nghệ. Từ quê hương, mở lòng
ra đất nước.
Ban đầu, khi đi làm có thể do ảnh hưởng của một thời Thơ mới, chàng thanh niên có khiếu văn thơ cũng có giấc mộng trở
thành thi sĩ. Nhưng cũng ngay từ đầu, nhà thơ ấy đã biết đau nỗi đau chung,
biết buồn cho phận khổ chung. Đó chính là “lệ
hồn” và niềm thương nhớ đã mang tầm con người dân tộc. Nhớ Bắc (1943, 1948) là
đúc kết tấm lòng yêu nước sâu thẳm, mạnh mẽ của nhà thơ trẻ. Có thể nói, nhà
thơ tìm về lịch sử xa xôi, và chính truyền thống ấy đã nhập vào tâm hồn anh như
một sức mạnh kỳ diệu.Có thể nói: lịch sử đã
biến nhà thơ thành chiến sĩ để rồi ta có nhà thơ - chiến sĩ.
Đã từ rất sớm, Huỳnh Văn Nghệ là
một trong những nhà thơ “thống nhất” hàng đầu của Đất nước: “Từ độ mang gươm đi mở cõi/ Trời Nam thương
nhớ đất Thăng Long”. “Non sông giống Lạc Hồng” là muôn thuở trong lòng
người. Tình Bắc - Nam sau này còn được phát triển trong nhiều sáng tác khác (Mùa xuân sẽ nở đều trên hai miền Nam, Bắc; Bức thư tháng bảy,…). Cuộc đời cũng là sự kết nối Nam - Bắc - Nam để cuối
cùng yên nghỉ đời đời nơi quê hương yêu dấu.
Hình tượng Việt
Nam Mẹ - Tổ quốc như hun đúc tâm hồn nhà thơ - chiến sĩ với một ý thức đấu tranh giải phóng đất nước
toàn vẹn:
III
Mẫu thân tôi tuổi bốn mươi thế kỷ
Guốc Cà Mau và
chiếc nón Nam Quan
Cửu Long Giang buông dài làn sóng tóc
Lưng thắt eo áo Huế đỏ sao vàng
1947
Đất nước mang quá khứ hào hùng: “Gươm Lê Lợi còn sáng ngời dưới nguyệt/ Máu
xâm lăng còn đỏ mãi Bạch Đằng” và mở ra tương lai xán lạn: “Hăm lăm triệu một giống nòi Hồng Lạc/ Bước
văn minh theo đều nhịp Hoàn Cầu”.
Những “ngàn năm” được nhắc nhiều lần trong thơ
Huỳnh Văn Nghệ như từ ý thức của một nhà lịch sử. Quá trình dựng nước và giữ
nước là cả một thời gian trường kỳ đấu tranh sinh tồn của dân tộc: “Máu anh hùng tô non sông cẩm tú/ Mồ hôi dân
kết đọng ngọn lúa vàng”.
Ngay từ thời
tiền sử, người Việt đã có mặt ở vùng đất Nam Bộ. Riêng ở Đồng Nai, có di chỉ
khảo cổ từ thời đồ đá cũ nằm rải rác ở nhiều vùng ( Dầu Giây, Bình Lộc, An Lộc,
Phú Quý, Trảng Bom, Cù Lao Đức, Núi Gốm,…). Văn hóa Óc Eo là nền tảng còn lưu
lại nhiều dấu tích, nhất là những kiến trúc ở khu vực sông Tiền, sông Hậu đến
cả vùng Vàm Cỏ, Đồng Nai ( Gò Ông Tùng, Trị An, Cây Gáo, Vĩnh Cửu). Như vậy, địa
bàn sinh thái là rất rộng lớn, bao la.
Đồng Nai được
xếp hạng tới 40 di tích khảo cổ về lịch sử, văn hóa. Có những hạng mục rất xa
xưa như Văn miếu Trấn Biên - 300 năm, các lăng mộ Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Hữu
Cảnh, Nguyễn Đức Ứng và các nghĩa binh… Đồng thời, cũng có cả di tích về lịch
sử cách mạng: Căn cứ Khu ủy Đông Nam bộ, Địa đạo Suối Linh, Nhơn Trạch, Chiến
khu Đ mà công lao xây dựng là của Trung tướng Nguyễn Bình và Thi tướng Huỳnh
Văn Nghệ góp sức như chứng tích vẻ vang
một thời.
Như vậy, Huỳnh
Văn Nghệ vừa là nhân chứng, vừa là người góp phần làm nên lịch sử. Viết về Lịch
sử Chiến khu Đ trong thơ Huỳnh Văn Nghệ, Tiến sĩ Sử học Hồ Sơn Đài ghi:
“Nhớ về một sự kiện lịch sử nào đó, người
ta đọc thơ ông để chứng minh, để cam kết sự có thực của nó”. Huỳnh Văn Tới
thì tôn vinhHuỳnh Văn Nghệ là “Người chép sử quê hương” (Huỳnh
Văn Nghệ - tác giả và tác phẩm, Đồng
Nai, 2010).
Nam Bộ nổ súng
kháng chiến từ 23/9/1945.
Tuy nhiên, chàng
trai Huỳnh Văn Nghệ đã sớm tạm gác công
việc và mộng văn chương để đi vào trận tuyến đối địch với kẻ thù. Anh tham gia phong trào
Đông Dương đại hội từ năm 1936, sau đó
là Khởi nghĩa Nam Kỳ 1940, rồi đi vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Có những
năm, anh phải phiêu dạt sang Bangkok, hoạt động trong phong trào Việt kiều yêu
nước (1942-1944)
Huỳnh Văn Nghệ
là con người giàu xúc cảm, tràn đầy tình yêu thương gia đình, bè bạn, người
thân,đồng chí,đồng bào… Tình thương vô biên ấy như “bao trùm vũ trụ”lý tưởng cao đẹp thôi thúc cháy bỏng ý định lên đường . Anh
chiến đấu vì con người với quan niệm “Còn
yêu thương là chiến đấu không thôi”.Huỳnh văn Nghệ từng viết báo,làmthơ
những năm 1935-1938.Sự nghiệp “mài gươm,
múa bút”là song hành với nhau, mặc dù chủ yếu vẫn là binh nghiệp, việc quân
trên hết. Thi sĩ tương lai đã nghe theo tiếng gọi khẩn thiết của lịch sử.
Lực lượng vũ
trang từ nhân dân mà ra. Xưa “dân ấp, dân
lân” trở thành nghĩa binh, ngày nay quân đội chính là người dân mặc áo
lính. Công lao lớn của vị Thi tướng chính là đã xây dựng được một đội ngũ chiến
đấu ngày càng lớn mạnh.
Chi đội 10 là
tiền thân của bộ đội Huỳnh Văn Nghệ, sau là Trung đoàn 310. Từ chức Chi đội
trưởng, người chỉ huy tài năng, thao lược đã được cử làm Tư lệnh Khu miền Đông
(Quân khu 7) thay Trung tướng Nguyễn Bình.Chiến khu Đ là một căn cứ được xây
dựng ngày càng vững chắc của Vệ quốc quân - “Lập
chiến khu kiên cố sát cạnh thành/ Quyết kháng chiến cho đến ngày toàn thắng (Tân
Uyên).
Những chiến công
trong những năm đầu kháng chiến là những trận thử lửa mang ý nghĩa lớn trong
chiến sự. Thơ phản ánh chiến trận không nhiều, nhưng chỉ qua mấy bài thơ đặc
sắc đã làm nổi bật những chiến công lịch sử: Tân Uyên, Dân Quân, La Ngà,… Đó
là những trận thắng lợi về cả chiến thuật và chiến lược:các trận tiêu diệt hệ
thống tháp canh đồn địch, trận đánh giao thông lớn nhất Nam Bộ…
Chiến công và
chiến thắng một thời qua thơ cũng mang rõ dấu ấn lịch sử. Từ sự trưởng thành
của một chiến sĩ đến lực lượng quân sự, từ các trận đánh với quy mô ngày càng
lớn với những chiến công vang dội.
***
Thơ Đồng Nai là tập thơ phản ánh hiện thực
của một thời, mang tính chân thật lịch sử - chân thật về sự kiện, hiện tượng,
chân thật về hồn người. Nổi bật là sự thể hiện một hào khí lịch sử: tinh thần quyết
chiến, quyết thắng trong đánh giặc giữ nước.
Huỳnh Văn Nghệ -
mặc dù yêu thơ từ lâu, nhưng chưa phải lúc đó đã là một thi sĩ có nghề. Lời thơ tự nhiên, giản
dị, chân thành, có nét tài hoa riêng.Thơ có khuynh hướng hiện thực mới nhưng
mang phong thái lãng mạn cách mạng. Ngôn từ thực ra cũng là của một thời và có
sức hấp dẫn tâm hồn người đương thời. Những “binh
đao”, “khói lửa”, đặc biệt là “yên
cương”, “vó ngựa”, “sa trường”, “gươm kiếm” rồi “hiệp sĩ”, “ba quân”,… đầy rẫy trong thơ, văn,nhạc, hát hồi đầu
cách mạng và những năm đầu kháng chiến.
Trước hết, đây
là một sự thật lịch sử. Người dân trở thành người lính đánh giặc bằng những vũ
khí thô sơ nhất, bằng tất cả những gì có trong tay: “Súng gươm chen với giáo mác, dao phay/ Cán cuốc cùn cũng bửa tan đầu giặc (Dân
quân), bằng cáchtự tạo : “Lột sắt đường tàu/Rèn thêm dao kiếm” ( Nhớ -
Hồng Nguyên) bằng cả “cướp súng giặc giết giặc”: “Giặc tiến tới đây, súng kia cùng nhau cướp lấy” (Du
kích ca - Đỗ Nhuận).
Tuy nhiên, có
thể và cần thông cảm vì đó là tâm thế của chủ thể sáng tác, cũng như của người tiếp nhận qua thơ cũng như ca khúc là như vậy.“Bao chiến sĩ anh hùng/ Lạnh lùng vung gươm ra sa trường… Ngựa phi nơi
xa kia nghe súng vang bên trời điệu kèn
rộn ràng/ Là trang nam nhi quyết chiến sa trường, sống thác coi thường/ Mong
xác trong da ngựa bọc thân thể trai” (Chiến sĩ Việt Nam), “Mây núi rừng thiêng chính khí ca/ Tinh binh
rộn rã trên đường xa/ Đây hồn chinh chiến oai hùng ngự/ Một thuở đao binh giục
lánh nhà” (Chính khí ca).
Tượng đài Huỳnh Văn
Nghệ vừa được dựng ở Đồng Nai cũng là phỏng theo một bức ảnh có thật: vị tướng
cưỡi ngựa rất oai hùng.
Đó là loại ngôn
ngữ “hào sảng” hồn nhiên, vừa mới lạ, vừa cổ kính, nhưng thích hợp với khẩu
khí, khí thế con người thời đại mới - thời đại cách mạng và kháng chiến mang
dấu ấn lịch sử một đi không trở lại.
Thơ Đồng Nai vì vậy là sản phẩm thi ca của một thời đoạn lịch sử mang nét đặc sắc
riêng.
Ra đời năm 1949,
đó là tập thơ kháng chiến lớp đầu tiên.
Đây là thơ của những người nhập cuộc dũng cảm, dám lấy máu của mình để viết
thành thơ. Trần Mai Ninh(1917-1947) viết Nhớ máu, Hồng Nguyên (1922-1954)
viết Nhớ…và tiếp theo là ChínhHữu, Nguyễn
Đình Thi… thế hệ nhà thơ hình thành trong kháng chiến chống Pháp với những sáng
tác tiêu biểu.Bài thơ Cờxuất hiện cùng thời gian với Ngọn
quốc kỳ của Xuân Diệu tuy cảm hứng có phần khác nhưng về đại thể là ý tưởng ca ngợi: “Cao, rộnglàm sao! Cờ của tôi… In thêm muôn điểm sao ngời sáng/ Và một
vừng ô rạng khắp nơi” như “ Cờ đã
nâng cao/ Màu đỏ máu/ Với sao vàng rực rỡ”(Nhớ
máu - Trần Mai Ninh). Đó là những vần thơ lãng mạn anh hùng cách mạng
một thời. Huỳnh Văn Nghệ có thơ đăng ở tuần báo Sống, Sài Gòn từ 1935 (khoảng
mươi bài về đề tài tình cảm, dân sinh), có quan hệ thơ văn với Đông Hồ, Mộng
Tuyết thuộc lớp các nhà Thơ mới ở Nam
Bộ.Tuy nhiên, nhà thơ trẻ đã sớm đi vào ngả đường thơ cách mạng. Những bài thơ
về hoạt động bí mật từ 1940 (Thanh
niên) và 1942,1944 (Tha hương, Tết quê người, Bến cũ…), nhất
là từ 1943 với Về Bắc đã khẳng định vị trí chắc chắn của nhà thơ trong dòng
thơ mới cách mạng. Huỳnh Văn Nghệ có thể coi là lớp nhà thơ chuyển tiếp - trước và sau Cách mạng 1945.
Thơ Đồng Nai của Huỳnh Văn Nghệ mang đầy sức trẻ.Nguyễn Đình Thi từng nhận xét: “Thơ chúng ta ngày nay đang ở tuổi trẻ nhất
của thời đại mới.Nhịp sống chúng ta, từ sau Cách mạng đập lên nhiều phen dữ dội
đến bàng hoàng,đồng thời mở rộng ồ ạt”(Mấy
ý nghĩ về thơ - 1949). Nhận xét này cũng rất đúng với thơHuỳnh Văn Nghệ
buổi đầu. Tập thơ “đứa con đầu lòng”
tinh thần, là “bó hoa đầu của mùa tưới
mới” mang vẻ đẹp “lối thơ riêng biệt”:
“Một lối thơ thật và đẹp, thẳng thắn như
lòng người, đẹp cái đẹp chất phác còn hơi hoang vu của bờ sông xanh ruộng mía
hay sầm uất cây rừng”. Và đúng như nhà thơ tự thấy: “Sau nầy sông sẽ trong xanh như ngọc” (Tựa - Viết cho lần xuất bản
thứ nhất, năm 1949 - Văn Nam).
Xin thêm một lời
bình luận kết thúc: “Thơ Đồng Nai - tập thơ đầu tay của Huỳnh Văn Nghệ - đẹp và quý như một con sông đầu
nguồn ào ạt tuôn chảy”. Đó là “sông
nước ngàn xưa”(La Ngà) tiếp mạch
từ “Suối bạc ngàn reo chuỗi hạt châu”chan
hoà “Ánh sáng tưng bừng trên lá non” (Chiến
khu).
Con sông thơ ấy
đã mang linh hồn lịch sử