Trầm Hương
(Nguồn: VNĐN số 26 – tháng 07
& 08 năm 2018)
Với thực tiễn công việc của một
người tham gia những phim về lịch sử và truyền thống dân tộc, nhiều năm liền
tôi có niềm trăn trở về sự quý báu của những thước phim tư liệu, mà những nhà
làm phim đã thực hiện từ những chiến trường đẫm máu và nóng bỏng trong hai cuộc
kháng chiến trường kỳ. Nhiều người đã ngã xuống trong tư thế người chiến sĩ. Những
thước phim của họ được mang về các cơ quan Tuyên huấn, đến Thủ đô Hà Nội còn
vương máu của những người đã ngã xuống. Hầu hết họ hy sinh ở tuổi còn rất trẻ,
với mơ ước sâu thẳm, mong những thước phim tư liệu mà họ đổi bằng máu được trường
tồn, được nhiều người biết đến. Và thật vậy, lịch sử điện ảnh cách mạng Việt
Nam nói chung và Nam bộ nói riêng đã ghi nhận những bộ phim tư liệu, tài liệu
quý báu của một thời giữ nước. Với những máy quay cũ kỹ, cách tráng, dựng phim
rất sáng tạo, độc đáo; những kỳ công, lòng dũng cảm tiếp cận chiến trận; những
nhà làm phim thời ấy đã làm nên những tác phẩm điện ảnh được xem là “Những kỳ
tích và huyền thoại có thật”, góp phần to lớn vào sự nghiệp chung của dân tộc.
Những phim tư liệu lịch sử thời ấy
thực sự là những báu vật cho đời sau, từ “Trận Mộc Hóa” - bộ phim chiến sự đầu
tiên của Khu 8, các nhà làm phim Mai Lộc, Khương Mễ, Vũ Sơn đã ghi lại những
hình ảnh độc đáo của cuộc kháng chiến Nam bộ. Nếu không có họ, làm sao chúng ta
tận mắt chứng kiến những đợt xung phong anh dũng của những người lính vệ quốc đầu
tiên, viên đồn trưởng Bertrand đầu hàng trong trận Mộc Hóa… Để có được “chiến
công” làm nức lòng quân dân, khiến bà con ào ào đi xem phim “Trận Mộc Hóa” trên
bờ kênh Dương Văn Dương và tiếp theo những kỳ tích khác; tổ Nhiếp - Điện ảnh
Nam bộ đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thiếu thốn, hiểm nguy. Và theo cách nói của
họ, “Khó khăn xuất hiện, sáng tạo vượt lên”. Để đối phó với sự rình rập, tiêu
diệt của kẻ thù; những nhà làm phim đã phải chôn đồ nghề xuống bùn, đã tráng
phim trực hình ngay trong lòng địch, vượt qua đồn bốt địch chở nước đá về phục
vụ việc in tráng phim bằng guồng inox trong thùng gỗ có chèn nước đá, đã biết
cách tráng phim trực hình không cần điện, nhiều phim được in bằng đèn măng
xông… Chiếc ghe buồng tối của đạo diễn Khương Mễ đã phải luồn lách tránh tầm
bom na-pan của địch. Và máu họ đã đổ xuống cho những thước phim đầu tiên, từ
người tiếp liệu tận tụy, cho đến những nhà quay phim dũng cảm…
Song hành cùng sự nghiệp kháng
chiến, những nhà làm phim Nam bộ tiếp tục lập nên những kỳ tích. Thật quý báu
biết bao, khi ngày nay chúng ta còn có được những thước phim sống động về những
ngày cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam bộ, với những hình ảnh
“không trở lại trong lịch sử”, về trận Ấp Bắc, những ngày đồng khởi, những du
kích Củ Chi, đội nữ pháo binh, những bờ vai con gái vác đạn giữa cánh đồng mùa
nước nổi, những chiến dịch rầm rập bước chân người, những chiến thắng vang dội,
những hình ảnh Mậu Thân ngay trong lòng phố Sài Gòn, những người con gái, con
trai đẹp nhất trên “đường ra phía trước”, chân dung những tướng lĩnh oai phong
mà gần gũi, yêu thương; những người lính với nụ cười rạng rỡ bởi với họ “đời đẹp
nhất là đời đi chiến đấu”, cả những góc khuất số phận, mồ hôi, nước mắt đọng
trên những nếp nhăn của bà mẹ khóc con hy sinh, những đau thương, tổn thất...
Trong cuộc kháng chiến, miền Bắc là hậu phương lớn của điện ảnh cách mạng miền
Nam, nơi chi viện sức người, sức của cho điện ảnh Nam bộ, nơi lưu trữ những thước
phim tài liệu thấm máu từ các miền đất nước gởi về. Sự quý báu của những thước
phim tài liệu năm ấy chính ở sự chân thật, không dàn dựng, được ghi lại một
cách trung thực từ những trái tim nóng bỏng. Mỗi nhà quay phim, đạo diễn, biên
kịch năm ấy là những chiến sĩ. Họ đã vượt qua hiểm nguy, cái chết để ghi lại lịch
sử, đã nỗ lực giữ lại lịch sử bằng mọi khả năng có thể. Từ tổ Nhiếp - Điện ảnh
Nam bộ ở bưng biền trong kháng chiến chống Pháp, trong kháng chiến chống Mỹ đã
có những xưởng phim giữa rừng biên giới hay căn cứ khu 8, khu 9, miền Trung… sẵn
sàng cho ra đời những bộ phim nóng hổi hơi thở chiến đấu. Và nhiều thước phim
có một hành trình dài dằng dặc, được đưa ra miền Bắc làm hậu kỳ và quay trở lại
phục vụ chiến trường, làm ngời sáng hình ảnh đất và người của một “miền Nam anh
dũng”… Những xưởng phim trong rừng năm ấy đã làm những nhà báo quốc tế Wilfred
Burchett, Madeleine Riffaudvô cùng kinh ngạc và ngưỡng mộ. Ngày ấy đội ngũ làm
phim cũng ngày càng đông đảo, hùng hậu; từ nguồn kháng chiến cũ, từ nội thành
Sài Gòn vào, những nhà làm phim được đào tạo ngay trong lòng đất mẹ đến những đạo
diễn, quay phim được học hành bài bản từ miền Bắc vượt Trường Sơn vào Nam… Họ
đã làm nên diện mạo độc đáo của điện ảnh Cách mạng Nam bộ. Những thước phim từ
những chiến trường nóng bỏng năm ấy đã góp phần làm nên những giải thưởng “Bông
sen vàng”, “Bông sen bạc”, “Bồ câu vàng”… trong các Liên hoan phim trong nước
và quốc tế. Nhưng điều đáng quý hơn nữa, những người làm điện ảnh cách mạng Nam
bộ thời ấy đã ghi được những hình ảnh làm lay động hàng triệu trái tim con người.
Những thước phim ấy đã động viên, thôi thúc hàng triệu triệu người lao ra phía
trước, được sống “một ngày bằng hai mươi năm” cho những cuộc xuống đường lịch sử.…
Máy quay ngày ấy cồng kềnh, nên
khi tác nghiệp, những nhà quay phim là mục tiêu tiêu diệt hàng đầu của kẻ thù.
Vì lẽ đó, hàng trăm nhà quay phim của Xưởng phim Giải phóng Nam bộ, của Điện ảnh
Quân giải phóng miền Nam, Điện ảnh Giải phóng miền Trung…, được gọi chung là
“Điện ảnh Cách mạng Nam bộ” đã ngã xuống trên đường làm nhiệm vụ. Tôi rưng rưng
dừng lại trước “Danh sách liệt sĩ điện ảnh hy sinh tại chiến trường miền Nam”
mà quyển “Lịch sử Điện ảnh Cách mạng Nam bộ” đã trân trọng lưu giữ. Đó không chỉ
là những quay phim cháy bỏng tình yêu nghề nghiệp mà còn có những dựng phim,
chiếu phim, nhiếp ảnh, tiếp liệu… Đó không chỉ là những đạo diễn, quay phim nổi
tiếng đã góp phần làm nên những bông sen rực rỡ mà còn là những con người làm
công việc chuyên môn thầm lặng trong một góc rừng, đã ngã xuống vì bom pháo, biệt
kích, rắn độc, sốt rét… Họ là những người con ưu tú của mọi miền đất nước,
không chỉ là nam giới mà còn có những cô gái rất trẻ, cùng có chung niềm đam mê
nghề nghiệp, đã góp phần làm nên những thước phim tư liệu quý báu để lại cho di
sản điện ảnh đất nước…
Thế hệ chúng tôi lớn lên sau chiến
tranh, khi thực hiện những bộ phim lịch sử, gặp rất nhiều khó khăn trong việc
tìm lại, mua lại những phim tư liệu quý báu ấy. Hầu hết đó là những phim nhựa,
nằm trong các viện lưu trữ phim, xưởng phim tài liệu Trung ương, xưởng phim
Quân đội… Thật dễ hiểu vì sao những nơi ấy rất giàu có khi nắm giữ rất nhiều những
phim tư liệu chiến tranh quý báu, bởi miền Bắc thời đó là hậu phương lớn của điện
ảnh cách mạng. Nhưng đó cũng là những nơi nhận lấy sứ mạng trĩu nặng trong việc
giữ gìn, số hóa toàn bộ những thước phim lịch sử mà khi ẩm mốc, bị mất đi, cả
dân tộc bị thiệt thòi. Đại hội Điện ảnh Thành phố Hồ Chí Minh mở ra nhiều cơ hội,
thách thức cho những người hoạt động điện ảnh, nhiều kế hoạch sáng tác, đối ngoại,
đầu tư vật chất cho nền điện ảnh đầy triển vọng, lạc quan. Nhưng với lòng yêu mến
những thước phim lịch sử thấm máu bao chiến sĩ, tôi mong Nhà nước, những người
làm công tác điện ảnh có kế hoạch cứu lấy những thước phim tài liệu này, bởi thời
gian có sức công phá dữ dội. Tôi ao ước một ngày khi làm phim tài liệu về đề
tài lịch sử, chiến tranh, việc tra cứu tư liệu, mua phim được dễ dàng. Tôi cũng
ao ước một ngày những phim nhựa ấy dễ dàng chuyển qua đĩa, xâm nhập rộng rãi
vào trường học, các cơ quan nghiên cứu lịch sử, giáo dục cho thế hệ trẻ, bởi những
hình ảnh ấy tự thân đã có sức thuyết phục mạnh mẽ trái tim con người.
T.H