Ông sinh ra từ
một dòng họ vẻ vang bậc nhất và cũng nhiều tai ương nhất nước ta.
Nói ra mà khiếp hãi: Có dòng họ nào trong ba, bốn trăm năm, 4 lần bị
thảm án tru di tam tộc không? Này nhé, tính từ Khởi tổ Định quốc
công Nguyễn Bặc, công thần khai quốc công huân phò Đinh Bộ Lĩnh dẹp
loạn 12 sứ quân, thống nhất sơn hà, lập nên triều nhà Đinh, sau vì
phò tá dòng chính thống, bảo vệ cơ nghiệp nhà Đinh, chống lại Lê
Hoàn mà bị giết, bị tru di tam tộc, con cháu chạy tứ tán. Đến đời
Lý, tiến sĩ Nguyễn Quốc (ông tổ thứ 4 của Nguyễn Trãi) vì chống
nịnh thần mà bị giết, thảm họa tới số đông họ hàng. Đến cuối đời
Trần, Hữu hiệu điểm Nguyễn Công Luật, Quản quân thiết hổ Nguyễn Minh
Du phò Trần Phế đế chống lại Hồ Quý Ly đều bị giết cùng nhiều thân
quyến. Và đến Hậu tổ Nhập nội hành khiển, Quan phục hầu Ức Trai
Nguyễn Trãi, cuối đời bị thảm án tru di tam tộc, may còn sót lại hai
người con. Sử sách trước đây chỉ ghi sót một người, khi người vợ lẽ
đang mang thai trốn thoát được, sinh ra người con thứ sáu là Nguyễn Anh
Vũ, sau được vua Lê Thánh Tông rửa oan, phong cho làm tri huyện. Theo Như
Hiên Nguyễn Ngọc Hiền (hậu duệ xa đời của Nguyễn Hữu Cảnh), căn cứ
vào nhiều nguồn sử liệu tin cậy khác, cho biết: người con thứ ba của
Nguyễn Trãi là Nguyễn Công Duẩn, theo cha tham gia Khởi nghĩa Lam Sơn
lập được nhiều công lao, được vua phong tước Giản Định hầu. Khi thảm
án tru di xảy ra, Nguyễn Công Duẩn ở xa nên đã cùng gia quyến chạy
thoát và mai danh ẩn tích rất lâu. Anh em Nguyễn Hữu Hào, Nguyễn Hữu
Cảnh là di duệ của Giản Định hầu Nguyễn Công Duẩn.
Tính từ
Nguyễn Trãi, đến Nguyễn Hữu Cảnh là đời thứ 9, còn tính từ Khởi
tổ Định quốc công Nguyễn Bặc thì là đời thứ 19.
Về sự nghiệp
của Đức ông Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh (1650-1700) sử sách tập
trung nhiều vào 9 năm cuối đời vẻ vang của ông.
Nguyễn Hữu
Cảnh là con thứ ba của Chiêu Vũ hầu Nguyễn Hữu Dật. Truyền thuyết
kể rằng, ông có tính khí ngang tàng, ưa mạo hiểm ngay từ khi còn
nhỏ. Lớn lên đi học, văn cũng thông, võ lại càng giỏi. Gia đình thấy
ông sớm rành võ thuật thì thường xuyên khuyến khích, cho tập tành
xông pha trận mạc, trui rèn dũng lược. Tuổi trẻ ông đã sớm lập được
nhiều chiến công, được phong chức Cai cơ. Ông còn thạo nghề nông, quan tâm
phát triển nông nghiệp, lo cho đời sống nhân dân, nghĩ kế sách “dẫn
thủy nhập điền” (đào sông dẫn nước tưới tiêu cho ruộng đất) làm lợi
cho nông dân bản hạt. Càng trưởng thành, ông càng thể hiện cốt cách,
tài năng của một dũng tướng tài ba, một nhà chính trị kiêm ái.
***
Vào cuối thế
kỷ 16, vùng Diên Khánh (Khánh Hòa ngày nay) thường xuyên bị giặc ở
phía Nam tràn qua biên giới hòng chiếm đất, tàn sát cư dân. Nguyễn
Hữu Cảnh được cử làm Thống binh đem quân bình định biên cương. Ông đã
giữ yên vùng biên giới, dẹp yên bọn tạo phản, đem lại sự an bình cho
nhân dân.
Ông còn thực
thi chính sách ôn hòa, mềm dẻo, đoàn kết giữa các sắc tộc, hướng
dẫn cho dân phát triển sản xuất, chăm lo đời sống, giữ cho dân yên ổn
làm ăn.
Xứ Đồng Nai -
Đông Nam Bộ xa xưa là địa bàn của 2 tiểu quốc, rừng rú hoang dã, đất
rộng, người thưa. Sau bị nước Phù Nam thôn tính. Đến thế kỷ thứ VI,
nước Phù Nam bị xóa sổ bởi vương quốc Chân Lạp. Còn miền đất trũng
hoang phế thuộc hạ lưu sông Mê Kông (Tây Nam Bộ) hai phía có biển cả
bao bọc. Nhiều thế kỷ trước đó, cả vùng đất Nam Bộ danh nghĩa gọi
là Thủy Chân Lạp, thực chất chỉ là một vùng hoang dã, gần như vô
chủ. Các cư dân ở đây sống tự do, tự lo, chưa bị một nền hành chính
nào quản lý, chưa có bất cứ đơn vị hành chính (thôn làng, xã ấp…)
của một quốc gia nào.
Đầu thế kỷ
XVII, cuộc hôn nhân giữa công chúa Ngọc Vạn và vua Chân Lạp Chey Chettha
II đã khiến mối giao hảo Việt - Miên khởi sắc.
Lúc này, vùng
đất hoang dã Thủy Chân Lạp (Nam Bộ) được coi như “vùng trái độn” giữa
hai biên giới Việt Nam - Campuchia. Bất cứ dân tộc nào có sức lực, gan
dạ, muốn chiếm cứ khai phá lấy đất trồng trọt sinh sống đều được
tự do không bị cấm đoán, ngăn cản.
Sống ở vùng
ác địa đầy lam sơn chướng khí này, lúc đó có loáng thoáng vài sắc
tộc như Chơ-ro, S’Tiêng, Châu Mạ, Chăm, Khơ Me,... Người Kinh (Đại Việt)
lác đác đến đây nhiều đợt từ trước cả thời Trịnh - Nguyễn phân
tranh, sống ở vùng Mô Xoài (Bà Rịa), Đồng Nai, Bến Nghé... Nơi đây có
nhiều vùng trũng ngập cỏ, thuận tiện cho việc trồng lúa nước. Người
Việt cần cù, siêng năng, không ngại khó ngại khổ, rành nghề nông, lại
giỏi môn chài lưới đã khai phá rừng rậm, lập ấp, lập làng, quần tụ
dần đông đúc.
Năm 1679, một
số di thần nhà Minh không chịu hàng phục nhà Thanh bên Trung Quốc đã
dong thuyền, vượt biển chạy sang Việt Nam vào đất Đàng Trong xin tị
nạn. Chúa Nguyễn đã cho họ vào tị nạn ở Bàn Lân (Biên Hòa, Đồng Nai)
và Vũng Cù (Định Tường, Mỹ Tho).
Người Hoa có
truyền thống về thương mại nên họ chỉ khai phá đủ chỗ sinh sống rồi
lập chợ, tụ họp buôn bán. Với địa thế thuận lợi, trên bến dưới
thuyền, thuận ngả giao thông, họ đã lập chợ ở mỏm Cù lao Phố, lúc
đầu còn buôn bán lẻ tẻ, dần thành thương cảng sầm uất.
Mùa xuân năm
Mậu Dần (1698), chúa Nguyễn Phúc Chu phái Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh
lúc này đang làm Trấn thủ Dinh Bình Khương (Bình Thuận ngày nay) làm
Thống suất kinh lược vùng đất phương Nam (Nam Bộ). Kinh lược là chức
quan thay mặt vua, chúa trông coi việc quân, dân ở một vùng. Nguyễn Hữu
Cảnh được giao thay mặt chúa toàn quyền xứ Nam Bộ.
Tháng 2 năm
đó, đoàn thuyền chiến của Chưởng cơ Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh cập
bến Cù lao Phố. Ông đặt đại bản doanh tại Cù lao Phố và nhanh chóng
vạch ra kế hoạch khai hoang mở cõi và sắp xếp vùng đất Nam Bộ, bình
định biên cương. Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức chép:
Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vâng mệnh chúa
Nguyễn đã “lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập đất
Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng nên dinh Trấn Biên, lập xứ Sài
Gòn làm huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn. Mỗi dinh lập ra chức Lưu
thủ, Cai bạ và Ký lục để cai trị. Về vệ thuộc thì có hai ty Xá,
Lại để làm việc. Quân binh thì có tinh binh cơ đội thuyền thủy bộ và
thuộc binh để hộ vệ. Ngàn dặm đất đai, dân hơn 4 vạn hộ. Chiêu mộ lưu
dân từ châu Bố Chính đến lập nghiệp. Lập ra thôn, xã, phường ấp, phân
định địa giới, ruộng đất, lập ra tô thuế, xây dựng đinh điền bạ
tịch. Con cháu người Hoa nếu ở nơi Trấn Biên được quy tập thành xã
Thanh Hà, còn ở Phiên Trấn thì lập thành xã Minh Hương, rồi cho phép
vào hộ tịch”.
Nguyễn Hữu
Cảnh đã phân chia địa giới, đặt chức quan và cử người trông coi, định
mức tô thuế, lập sổ đinh điền, tổ chức quân binh,… thiết lập bộ máy
quản lý hành chính đầu tiên ở vùng đất Nam Bộ. Tất cả dân số đều
nhập vào sổ bộ nhà chúa Nguyễn. Toàn bộ cư dân vùng đất phương Nam
(Nam Bộ) đã trở thành thần dân của chúa Nguyễn.
Đất Đồng Nai khi đó thuộc huyện Phước Long. Huyện Phước
Long có địa giới khá rộng là phần lớn của miền Đông Nam Bộ, bao gồm
các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Bà Rịa - Vũng Tàu, và
một phần của tỉnh Bình Thuận cùng một phần của Thành phố Hồ Chí
Minh ngày nay.
Nguyễn Hữu
Cảnh đã ra sức đôn đốc dân khai phá ruộng rẫy, phát triển sản xuất
nông nghiệp, đẩy mạnh giao thương, buôn bán. Ông rèn luyện quân lính,
tổ chức canh phòng giữ yên ổn các thôn trang. Ông đặt ra chính sách
khuyến khích khẩn hoang và chiêu mộ dân từ miền Trung, miền Ngũ Quảng
vào khai phá xứ Đồng Nai, Gia Định:
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.
Câu ca có từ
thuở khai hoang, lập ấp này.
Nguyễn Hữu
Cảnh còn khuyến khích các thương nhân xây dựng Cù lao Phố thành một
thương cảng sầm uất nhất xứ Nam Bộ thời đó. Các sản vật: cau Đàng
Trong, gỗ Đồng Nai, đuông rừng Sác, cá khô Bến Nghé,… và nhiều món
hàng đặc sản khác của Nam Bộ, Đàng Trong được mua bán, trao đổi với
khách hàng trong và ngoài nước.
Cả vùng đất
phương Nam (Nam Bộ) bấy giờ với bộ máy hành chính được thiết lập,
nông thương phát triển, dân cư tụ hội, an ninh bảo đảm, binh lực hùng
cường là nhờ công lao của Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh - người có
tài kinh bang tế thế, thực hiện xuất sắc ủy thác của Chúa Nguyễn.
Ghi sâu công
đức của Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, khắp nơi
trên vùng đất Đồng Nai - Nam Bộ, nhân dân đã lập đền thờ ông ngay sau
khi ông mất và nối đời hương khói, cúng tế. Tại rất nhiều nơi trên
đất Nam Bộ từ mấy trăm năm trước đã lưu tên ông: Cù lao Ông Chưởng,
Sông Ông Chưởng, đền Lễ Công, Đình Bình Kính...
Phước Long Giang