Nguyễn Tân Triều
(Nguồn: VNĐN số 31 – tháng 05 & 06 năm 2019)
Ngày ấy, tôi là một thanh niên mới
lớn, tuổi chưa đến 20, lòng đầy ắp những hoài bão lớn lao được góp sức mình dựng
xây quê hương đất nước. Quê tôi, làng Bưởi Tân Triều, một cù lao bốn mùa tươi
xanh cây trái với cuộc sống yên lành của người dân mộc mạc. Ruộng đồng, với tiếng
chuông nhà thờ êm ả ngân nga trong những buổi hoàng hôn thanh vắng… Thế nhưng
trong cuộc chiến đấu thần thánh của dân tộc để giành lại chánh nghĩa, giành độc
lập cho quê hương… làng tôi là vùng đệm giữa chiến khu Đ và phi trường Biên Hòa,
một phi trường quân sự bậc nhất của vùng Đông Nam Á lúc bấy giờ nên bọn Mỹ ngụy
ra sức giữ gìn, bảo vệ. Chúng lập đồn bốt, tuần tra liên tục, bắt người vô cớ
và có thể xả súng vào bất cứ đối tượng nghi vấn nào, ở bất cứ thời điểm nào.
Cho nên, dù sống trong vùng tạm chiếm, dưới mắt chúng tôi, bọn chúng là những
tên ác ôn rất đáng kinh tởm! Mặc dù bị bao vây bởi đồn bốt, hàng rào và những
cuộc tuần tra liên tục, tinh thần chiến đấu vẫn được bà con dân làng thể hiện hết
sức quyết tâm và cụ thể. Nhà nào cũng có một hệ thống hầm hào bí mật, rộng rãi,
có thể chứa được nhiều người. Đêm về, thật yên lặng vắng vẻ, nhưng nếu để ý, ai
cũng biết rằng mọi hoạt động đều đang được diễn ra một cách âm thầm, bí mật
nhưng hết sức khẩn trương và chính xác.
Ngay từ thời điểm đầu năm 1975, một
không khí rất ồn ã, náo nức bao trùm cả làng Bưởi. Ai cũng náo nức, phấn khởi về
những tin tức bí mật cứ rỉ rả truyền tai nhau và mọi người, kể cả trẻ con đều
chuẩn bị một cái Tết thật đặc biệt. Bọn trẻ chúng tôi, ban ngày đi học, chăn
trâu ngoài đồng, thường bí mật tìm hiểu về vị trí các đồn bốt giặc, cửa quy hướng
nào, bao nhiêu lô cốt, bố trí bằng súng gì, có bao nhiêu lính canh nơi ấy,… rồi
bí mật báo cho các chú biết kèm theo sơ đồ vẽ được. Rồi cái Tết cũng trôi qua
trong sự yên ắng đầy sốt ruột của mọi người nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra cả.
Trong khi mọi người còn đang thất vọng thì lại có tin tức mới: Quân ta đang chuẩn
bị Tổng tiến công! Mọi người lại hăng hái chuẩn bị những gì có thể được một
cách tốt nhất để giúp cho cuộc kháng chiến được thành công.
… Và, những tin vui tới tấp loan
truyền. Từ vùng 1, vùng 2 bị thất thủ rồi đến Kon Tum… Ngày lại ngày, qua Đài
BBC, Đài Phát thanh Giải phóng, tin vui như một luồng gió thổi bùng lên hy vọng
của mọi người. Riêng các đồn bốt xung quanh làng, bọn ngụy tăng cường lực lượng,
phòng thủ tối đa hơn, 24/24 giờ. Thế nhưng, cuộc tiến công như vũ bão của lực
lượng giải phóng đã thúc đẩy tình hình thay đổi nhanh hơn. Ngày 18/4, Định Quán
được giải phóng, rồi đến Xuân Lộc, Long Khánh… Bọn Ngụy đã thả đến mấy quả bom
thế hệ mới ngay tại Long Khánh để chặn đường tiến quân về Sài Gòn của quân Giải
phóng nhưng hoàn toàn thất bại. Ngày 28/4, quân địch co cụm lại tại tất cả các
đồn bốt để phòng thủ, chịu trận trước những cuộc tấn công kinh hồn của quân giải
phóng từ tất cả các mặt trận. Đặc biệt ở khu vực sân bay Biên Hòa, pháo cao xạ
của quân giải phóng đã dập liên tục vào nơi đây từ các hướng Chiến khu Đ, Tân
Uyên, Trảng Bom… gây nên những tiếng nổ kinh hồn và những đám cháy bất tận với
các cột khói bốc cao che kín cả bầu trời. Một số các kho đạn trong sân bay đã bốc
cháy tạo nên hàng loạt tiếng nổ kinh thiên động địa suốt cả ngày đêm!
Ngày 29/4, sân bay Biên Hòa thất
thủ. Bọn địch đã tháo chạy, bỏ lại một hậu cứ rộng lớn của sân bay hoàn toàn vô
chủ. Người từ khắp nơi xông vào hôi của, mặc cho đạn nổ, bom rơi ngay cạnh bên
mình! Tại làng quê tôi, cảnh tượng bi hài cũng diễn ra liên tục. Trong không
khí đầy hoảng loạn và hỗn độn khi Biên Hòa thất thủ, bà con tỏa ra khắp ngả đường
reo vang chiến thắng, người phất cờ, kẻ nhảy múa liên miên, kẻ đi tìm người
thân bị thất lạc trong chinh chiến. Bọn trẻ chúng tôi thì xách xe đạp, dàn
ngang ra đường, vừa la vừa chạy khắp chốn như bị động kinh. Tại Ủy ban xã, tôi
thấy các anh chị du kích đang treo cờ giải phóng, dọn dẹp hiện trường và tổ chức
ngay các đội tự vệ của địa phương. Còn bọn ngụy thì sao? Chúng kéo nhau bỏ chạy
thục mạng về phía bờ sông, vừa chạy vừa vứt bỏ vội vàng súng ống, ba lô và cả
quần áo lính đang mặc trên người. Có tên chỉ còn mặc độc mỗi chiến quần lót
trên người và có tên thậm chí chẳng mặc gì cả! Chúng chạy trối chết theo quán
tính và tìm cách thoát ra khỏi khu vực đang tranh chấp càng sớm càng tốt. Tại bờ
sông Đồng Nai, bọn trẻ chúng tôi được chứng kiến một cảnh tượng không tưởng:
Trong vô vàn tiếng súng đạn rền vang, bọn lính ngụy trong tư thế Adam hốt hoảng
vội vàng phóng ùm xuống sông để bơi sang bờ bên kia trốn chạy thì ngược lại, những
con chó của bà con lối xóm, do hoảng sợ với tiếng bom đạn cũng từ bên kia sông
đang hối hả bơi qua để lội lên bờ! Hai hình ảnh hoàn toàn trái ngược nhau nhưng
cũng làm cho tôi ray rứt mãi!... Trọn ngày hôm ấy, chúng tôi còn chạy đi khắp
nơi, vào mãi tận chi khu Công Thanh để xem tình hình giải phóng. Đâu đâu, bà
con cũng đổ ra đường để đón các anh giải phóng, cờ hoa được treo đầy khắp nơi
và truyền tay khắp chốn. Các mẹ, các chị, hối hả may thật nhiều những lá cờ giải
phóng, nửa đỏ, nửa xanh, có ngôi sao vàng và cờ Tổ quốc màu đỏ sao vàng để phân
phối cho mọi nơi chuẩn bị ngày mít tinh mừng giải phóng. Thật bất ngờ, ngày giải
phóng đến, ngay tại quê mình, bọn địch tự tan rã, không phải tốn một viên đạn
nào! Và đến ngày 30/4/1975, trong khi trên đài, Tổng thống Dương Văn Minh tuyên
bố đầu hàng và kêu gọi quân lính bỏ súng thì tại quê nhà chúng tôi đang có cuộc
mít tinh lớn để mừng ngày giải phóng. Hầu như mọi người đã bỏ ngỏ nhà cửa của
mình để kéo hết ra xã tham dự. Tại đây, không khí náo nức, phấn khởi chưa từng
có, ai ai cũng hân hoan vì đã đánh tan được Mỹ ngụy, giải phóng quê hương… Tiếng
reo hò vang động cả một làng quê vốn yên bình tĩnh lặng bởi những bốt đồn bao
quanh từ trước đến nay…
… Và giờ đây, đi giữa cờ hoa rợp
nắng, tôi say sưa nhớ lại cái không khí nhộn nhịp, phấn khởi của ngày giải
phóng… Hơn bốn mươi năm hay chỉ mới vừa hôm qua? Hình ảnh người chiến sĩ giải
phóng với đôi dép râu bình dị, chiếc mũ tai bèo cộng với bộ đồ bà ba đen quen
thuộc sẽ vẫn là một hình ảnh đẹp nhất trong vô vàn những hình ảnh đẹp mà hồi ức
tuổi thơ của tôi đã kịp ghi nhận từ hơn bốn thập kỷ trước. Quê hương đã có nhiều
đổi thay vượt bậc, cuộc sống của xã hội ngày một nâng cao, cơ sở hạ tầng đã tiến
lên theo thời đại. Con người đã tiếp cận với khoa học kĩ thuật và đã làm chủ được
thiên nhiên, đưa đất nước tiến lên ngang tầm thế kỉ…
T.T