Khi tôi chuyển về
đóng quân ở Biên Hòa năm 1980 thì Hội Văn học Nghệ thuật Đồng Nai vừa được
thành lập. Một ngày nọ từ Bệnh viện 7B nơi tôi đang thực tập lên Biên Hòa, đi tới
gần tới Ngã ba Vườn Mít, chợt phát hiện ra một biệt thự rất đẹp, có biển đề bằng
đồng “Hội Văn học Nghệ thuật Đồng Nai”. Trước cửa Hội, trên hàng rào cạnh đường
dựng một tấm pa- nô lớn quảng cáo báo Văn nghệ Đồng Nai số mới, tôi thấy
những cái tên như Lý Văn Sâm, Hoàng Văn Bổn, Nguyễn Duy Thinh, Vũ Xuân Hương,
Hiền An Giang, Chu Diễn Thành, v,v...
Nhà thơ Đàm Chu Văn (bìa phải) bên các nhà văn lão thành của Hội thời kỳ mới thành lập
Tôi mừng húm như vừa phát hiện ra được một
miền đất mới. Lúc đó, tôi đã có một số bài thơ đăng trên các báo Quân đội Nhân
dân, Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh, Đại đoàn kết, Văn nghệ Thành phố Hồ Chí
Minh,v,v... và có “lưng vốn” hơn 100 bài thơ chép trong sổ tay. Tôi tập tành
làm thơ từ khi còn đang học cấp ba. Năm 1974, theo ông bác đi xây ở Thị xã Thái
Bình trong khi chờ giấy gọi Đại học, tôi đã thập thò trước cổng Hội Văn học Nghệ
thuật Thái Bình và “mạnh dạn” gửi bài đến mấy lần rồi dài cổ chờ đợi mà vẫn bặt
vô âm tín. Lần này tôi thấy tự tin hơn vì đã được thử thách trên các báo. Ngày
hôm sau, tôi mang mấy bài thơ hăm hở đến gửi. Không gặp được các nhà văn đáng
kính, tôi đưa cho một cô gái xinh đẹp gặp ở ngoài sân cơ quan nhờ chuyển dùm.
Cô gái ấy sau này tôi mới biết là Ngọc Bích, một diễn viên của Đoàn Ca múa nhạc
kịch Đồng Nai lúc đó đến Hội chơi.
Bẵng đi vài tuần chờ đợi, ước chừng báo đã
ra, tôi lại hăm hở đạp xe đến Hội. Vào đến cổng, tôi thấy một ông già trạc ngoài
năm mươi, dáng cao gầy dắt xe từ trong đi ra, tôi không kịp chào thì ông đã đi
khuất. Vào tầng trệt, thấy rất đông người, rồi một người dáng cũng cao, nhưng
còn gầy hơn hai má hõm sâu, trạc ngoài bốn mươi thấy tôi thập thò ngoài cửa vội
đi ra. Tôi hỏi: Thưa anh, báo ra chưa ạ? Báo ra rồi, em tên gì vậy? Người đó hỏi. Dạ, em là Đàm Chu Văn ạ! Ồ!
Đàm Chu Văn hả, số này Văn có bài đấy, vào đây. Người nọ vồn vã kéo tôi vào
trong phòng và đưa cho tôi tờ Văn nghệ Đồng Nai, măng-sét màu xanh, còn
thơm mùi mực in. Tôi lật giở nhanh và tìm thấy bài thơ của mình được in ở góc
dưới cùng của trang thơ. Đó là bài Hoa rừng. Tôi còn nhớ bài thơ có bốn
câu như sau:
Ôi những chiều tà sẫm máu các anh
Rừng nức nở thốt lên lời
vĩnh biệt
Những con người ngã xuống mà không chết
Thành hoa rừng thơm ngát dọc
đường đi.
Lúc đó đang chiến tranh biên giới Tây Nam, tôi viết về những đồng
đội đã hy sinh. Tôi hỏi tên và đuợc biết người đang tiếp chuyện tôi là anh Hiền
An Giang, thư ký tòa soạn báo. Anh Hiền An Giang khen: Em viết được đấy, tiếp tục
gửi bài cho báo nữa nhé. Tôi vâng dạ rồi ra về, lòng vui lâng lâng. Số báo sau
tôi lại đuợc đăng hai bài thơ viết cho thiếu nhi. Anh Hiền An Giang nói: “Đến số
này thì có người hỏi Đàm Chu Văn là ai rồi đấy, em được chú ý rồi đấy”. Rồi một
người dáng tầm thước bước vào, da trắng, hai mắt nhỏ, khuôn mặt nhom nhem những
râu nhìn tôi nói: Đây là Đàm Chu Văn hả? À, mà cậu lấy nhuận bút chưa? Dạ, tôi
đáp lửng... Thú thực tôi nghĩ chắc cũng có nhuận bút như các báo kia nhưng ngại
không hỏi. “Vào đây”- người đó dắt tôi vào phòng hành chính và kêu chị thủ quỹ
phát nhuận bút cho tôi, tiện thể tôi nói luôn bài thơ lần trước cũng chưa lấy
nhuận bút. Quả nhiên có đủ cả. So với đồng lương chuẩn úy năm tư đồng của tôi
lúc đó thì khoản nhuật bút này cũng là đáng kể: mỗi bài thơ được những bốn mươi
đồng.
Dần tôi trở thành cộng tác viên tích cực của báo, bài vở được đăng ngày
càng nhiều. Ngày 22 tháng 12 năm 1981, kỷ niệm 2 năm thành lập Hội, mặc dầu
chưa phải là hội viên tôi vẫn được mời tham dự. Cảm giác lúc đó là rất vui,
thiêng liêng như lần đầu được ngồi với người yêu vậy. Năm đó, tôi là một trong
ba tác giả được tặng thưởng của Hội. Phần thưởng là 150 đồng, gấp gần ba lần
lương sĩ quan quân đội của tôi. Liên hoan xong còn được tặng vé mời xem phim ở
rạp Nam Hà.
Đàm Chu Văn