Bài nghiên cứu của Trần Quang Toại
(Nguồn: Tạp chí Văn nghệ Đồng Nai số 42)
Có thể nói trên
thế giới, hiếm có vị võ tướng nào lại được tôn thờ và ảnh hưởng đến tín ngưỡng
dân gian lớn như Quan Công. Nơi nào có người Hoa cư trú thì nơi đó có miếu thờ
Quan Công với thần vị Quan Thánh Đế Quân.
Ở Trung Quốc nếu Khổng Tử 孔子được tôn
thờ như một vĩ nhân trong văn hóa thì Quan Vũ 羽, 160 -
219 hay Quan Công được tôn thờ như một vị thần đa dạng trong dân gian. Quan Vũ
không những được các vua chúa phong thánh đế vương mà còn được Phật giáo, Lão
giáo và Khổng giáo tôn sùng ngưỡng mộ. Dân chúng theo đó tôn thờ Quan Vũ ở khắp
nơi trong và ngoài nước. Tại miếu Quan Đế ở tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc có một câu
đối về ông – “Hán phong Hầu, Tống phong Vương, Thanh phong Đại đế. Nho xưng
Thánh, Thích xưng Phật, Đạo xưng Thiên tôn”.
Bên cạnh việc được liệt đại Hoàng đế Trung Quốc truy phong, trong
toàn bộ chiều dài lịch sử văn hóa và tôn giáo nước này, Quan Vân Trường là nhân
vật duy nhất được cả Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo phong làm thần linh.
1. Người Hoa ở
Biên Hòa:
Năm 1679, Cù lao
Phố Biên Hòa là một trong những địa điểm được chúa Nguyễn Phúc Tần cho phép
3000 binh lính, gia đình người Hoa thuộc nhóm “phản Thanh phục Minh” do Tổng
binh Cao, Lôi, Liêm là Trần Thượng Xuyên (tức Trần Thắng Tài) lãnh đạo vào định
cư xây dựng cuộc sống mới.
Cù lao Phố là
một bãi phù sa nằm ở giữa sông Đồng Nai, có hệ thống sông bao quanh, giao thông
thuận tiện với đường thuỷ từ Bắc xuống Nam, lên Cao Miên và xuống Tây Nam
bộ.
Toàn cảnh chùa Ông (Thất phủ cổ miếu) bên dòng sông Đồng Nai (nguồn ảnh: internet)
Các điều kiện tự
nhiên ở đây giúp cho nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp sớm hình
thành và phát triển. Trần Thượng Xuyên cùng với những hào phú, quý tộc đi theo
ông “Chiêu nạp người buôn nước Tàu, xây dựng đường phố, lầu quá đôi tầng rực rỡ bên bờ sông, liên lạc năm dặm và phân hoạch
ra ba nhai lộ, nhai lớn giữa phố lát đá trắng, nhai ngang lát đá ong, nhai nhỏ
lát đá xanh, đường rộng bằng phẳng”. Đây là bước chuẩn bị cơ sở kinh doanh của
nhóm người Hoa ở Cù lao Phố, mở ra cho thương nghiệp phát triển.
Nhóm người Hoa theo Trần Thượng Xuyên định
cư ở Bàn Lân và sau đó, tiếp tục nhiều nhóm người Hoa và các nước khác là những
thương buôn chuyên nghiệp có vốn to và giàu kinh nghiệm. Hơn nữa, kiểu buôn bán
ở Cù lao Phố là dạng xuất nhập khẩu, có nhiều kho hàng dự trữ hàng hoá nhập vào
và dự trữ hàng hoá thu mua, với nhiều chân rết. Trịnh Hoài Đức trong Gia Định
thành thông chí (viết khoảng 1820) mô tả về cảnh mua bán ở thương cảng Cù
lao Phố: “Xưa nay thuyền buôn đến đây hạ neo xong, thì lên bờ thuê phố ở, rồi đến
nhà chủ mua hàng, lại đây kê khai những hàng hoá trên thuyền và khuân cất lên,
thương lượng giá cả, chủ mua hàng định giá mua bao tất cả những hàng hoá tốt xấu,
không bỏ sót lại thứ gì. Đến ba ngày trương buồm trở về, gọi là hồi đường, chủ
thuyền có yêu cầu mua giúp vật gì thì người buôn cũng chiều y ước đơn mua giùm
chở đến trước kỳ giao hẹn, hai bên chủ khách chiếu tính hoá đơn thanh toán rồi
cùng nhau đàn ca vui chơi …”.
Đa phần người
Hoa đến Nam bộ, Biên Hòa từ thế kỷ 17 và tiếp tục sau đó, có nhiều nhóm ngôn ngữ
khác nhau đến từ bảy phủ ở Trung Quốc: Phúc Châu, Chương Châu, Tuyền Châu (tỉnh
Phúc Kiến), Quảng Châu, Triều Châu và Quỳnh Châu (tỉnh Quảng Đông), Ninh Ba (tỉnh
Chiết Giang). Việc nhiều miếu Hoa ở Nam bộ có tên gọi Thất phủ võ miếu, Thất phủ
miếu hay Thất phủ cổ miếu… thể hiện đầy đủ cộng đồng này. Người Hoa, khi đến định
cư ở Biên Hòa đã mang nhiều hành trang văn hoá từ quê cha đất tổ đến vùng đất mới
lập nghiệp, góp phần cùng các dân tộc anh em khác xây dựng và phát triển nơi
đây ngày một trù phú. Một trong những hành trang qúy giá ấy chính là tín ngưỡng
thờ Quan Công mang nhiều nét nổi bật, tiêu biểu cho văn hoá tinh thần người Hoa
cũng như sự giao lưu văn hoá Việt - Hoa.
Tên gọi Chùa Ông, thể hiện sự giao lưu văn hóa này.
Thất phủ cổ miếu ở Cù lao Phố (phường Hiệp Hòa) thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, Việt Nam được
cộng đồng người Hoa xây dựng và khánh thành năm 1684. Đây là di tích tín ngưỡng thờ Quan Công đầu tiên được người
Hoa xây dựng ở miền Nam Việt Nam (Nam bộ) và đã được Bộ Văn hóa Thông tin (nay
là Bộ Văn hóa Thể thao - Du lịch) nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra
quyết định công nhận là Di tích Lịch sử Văn hóa Quốc gia năm 2001.
Quan Vũ([1]), nhân vật lịch sử
có thật trong thời Tam quốc (Trung Quốc) là nhân vật có nhiều giai thoại được
lưu truyền trong sử sách Trung Hoa và trong dân gian. Từ những giai thoại dân
gian cho đến các tác phẩm văn học, sử học đều ca ngợi Quan Công với các phẩm chất:
Trung nghĩa, thẳng thắn, hiên ngang, chính trực, văn võ toàn tài, có tiết tháo
của người quân tử… Những phẩm chất đó phù hợp với truyền thống văn hoá Trung Quốc
- vốn dĩ chịu ảnh hưởng Nho giáo khá sâu đậm. Đồng thời cũng là nhân vật được
các triều đình phong kiến Trung Hoa phong nhiều danh hiệu. Và tùy vào điểm thờ
ông mà Quan Công được tôn xưng nhiều danh hiệu như: Quan Công, Quan Thánh, Quan
Đế, Nhân Đức Thánh Quân, Phục Ma Đại Đế, Thần Oai Viễn Trấn, Phật Già Lam, Cái
Thiên Cổ Phật....
Hàng năm Thất phủ
cổ miếu ở Biên Hòa đều tổ chức lễ vía Đức Ông (sinh nhật) vào ngày 13 tháng
Giêng âm lịch, và lễ kỷ niệm ngày mất vào ngày 24 tháng 6 âm lịch. Từ năm 2013
đến nay, lễ hội Thất phủ cổ miếu Biên Hòa (Chùa Ông) đã được khôi phục và tổ chức
từ ngày mùng 10 đến mùng 13 âm lịch hàng năm, gắn với ngày Tết Nguyên đán ([2]).
2. Từ tín ngưỡng
dân gian thành tín ngưỡng cộng đồng ở Biên Hòa:
Ở Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai có nhiều thiết chế tín ngưỡng thờ Quan Công, có nơi gọi là Miếu, có
nơi gọi là Đền, có nơi gọi là Chùa Ông (như ở thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng
Nai, Việt Nam). Người Việt Nam thờ ông trong nhiều chùa, thờ chung với Phật bà
Quan âm. Người Việt gọi ông là Hán Thọ Đình Hầu - hay phổ biến là Quan Thánh Đế
Quân. Trong dân gian tôn là thần Trung Nghĩa. Đặc biệt trong giai đoạn phát triển
của kinh tế thương mại (đầu và giữa thế kỷ 20), tầng lớp thương nhân người Hoa,
người Việt thờ Quan Công biểu trưng cho chữ “Tín” trong buôn bán. Ngoài ra, ông
còn được xem là vị tài thần để bảo vệ và mang đến may mắn, tiền bạc cho họ.
Tín ngưỡng thờ
Quan Thánh của người Hoa ở Biên Hòa được người Việt tiếp nhận và Ông trở thành
một trong những vị thần gắn liền với đời sống văn hoá tinh thần của họ trên mảnh
đất Nam bộ xưa và Biên Hòa. Đặc biệt, không chỉ có người Hoa mà cả người Việt
còn thỉnh Quan Công vào thờ ở trên một “trang” thờ ở nơi cao trong nhà cùng với
các thần, phật khác như: Cửu Thiên Huyền Nữ, Bà Chúa Ngọc, Quan Âm, Thích Ca…
Nhiều nhà nghiên cứu văn hóa cho rằng: “Quan Công thờ tại gia đình thì là vị
thần phù hộ cho gia chủ (nam giới), thờ ở đền miếu là vị thần phù hộ cộng đồng,
thờ ở Đạo quán là một trong ba mươi sáu tướng của Huyền Thiên thượng đế chuyên
trừ tà ma cứu độ chúng sinh, thờ ở chùa là Già Lam bồ tát hộ trì tam bảo”.
Như vậy, Quan
Công không chỉ là vị thần thuộc phạm vi gia đình mà còn là vị thần mang tính chất
tín ngưỡng cộng đồng của người Việt. Trong một số ngôi đình của người Việt, người
ta còn thỉnh ông vào thờ cùng phối hưởng với thần Thành hoàng và các thần thánh
khác của người Việt với bài vị khắc là Quan Thánh Đế Quân hay tượng cốt, thậm chí có thể là một
ngôi miếu nhỏ trong khuôn viên đình.
Người Việt thờ Quan Công cũng được lý giải
từ đặc điểm xuất thân, tính cách của người dân ở miền Nam bộ, Biên Hòa xưa?
Đa phần người Việt
đến Nam bộ, Biên Hòa vốn là những lưu dân từ miền Bắc, miền Trung đi vào khai
hoang vùng đất mới theo kêu gọi của các chúa Nguyễn từ thế kỷ 17; hoặc những
người có tính “phiêu lưu mạo hiểm” luôn luôn coi trọng nghĩa khí với tinh thần
“trọng nghĩa khinh tài”, “tứ hải giai huynh đệ”, cư xử với nhau hào hiệp, rộng
rãi, vì nghĩa xả thân mà không tiếc nuối. Phải chăng họ đã bắt gặp tính cách và
phẩm chất của một vị thần có những phẩm chất giống như mình là Quan Công? Và từ
đó, ông nhanh
chóng trở thành vị thần độ mạng, gắn liền cùng đời sống tâm linh của người Việt.
Tín ngưỡng thờ
Quan Công ở miền Nam nói chung và Biên Hòa, Đồng Nai nói riêng là vấn đề có ý
nghĩa và quan trọng trong việc nghiên cứu văn hóa người Hoa; nghiên cứu về sự
giao lưu tiếp biến văn hóa giữa người Hoa và người Việt ở miền Nam và Biên Hòa
- Đồng Nai. Đặc biệt, Thất phủ cổ miếu ở Biên Hòa thờ Quan Thánh Đế Quân của người Hoa được người dân địa
phương gọi là Chùa Ông. Khu vực nơi có Thất phủ cổ miếu là xã Hiệp Hòa (nay là phường Hiệp Hòa), thành phố Biên Hòa là địa bàn có đến
trên 20 chùa,
đình thần người Việt thờ Phật, thờ Thành hoàng bổn cảnh, những nhân vật lịch sử
dân tộc; Miếu thờ Quan Công tại Thất phủ cổ miếu Biên Hòa, Đồng Nai lại có Quan
âm các thờ Phật bà Quan âm phải chăng cũng là lý do từ lâu người Việt gọi đây
là “Chùa Ông”. Đây cũng là nét đặc trưng thể hiện rất rõ mối tương đồng Hoa -
Việt về tín ngưỡng tôn trọng những phẩm chất về Tín, Nghĩa, Tiết tháo… những
giá trị có ý nghĩa trong tư tưởng phương Đông Nho giáo? Mà Quan Công chính là
hiện thân của những phẩm chất, lý tưởng và đạo đức mà họ hướng đến, không riêng
gì người Hoa mà còn ở cả người Việt.
Đây chính là sự đồng cảm về mặt văn hóa tinh
thần, sự cộng cảm tâm linh và quá trình giao lưu văn hóa của cộng đồng người
Hoa, người Việt trong tiến trình khai khẩn, xây dựng và phát triển trên vùng đất
Biên Hòa – Đồng Nai, một bộ phận của Việt Nam hơn 320
năm qua.
T.Q.T
[1]() Quan
Công tên thật là Quan Vũ (160- 219), tự Vân Trường, người đất Giải Lương, tỉnh
Hà Đông - Trung Quốc (có sách chép Ngài sinh tại Bồ Châu). Ông là một nhân vật
lịch sử thời Tam Quốc (211-264) ở Trung Quốc, được xem là người giỏi võ nghệ và
được tôn là vị “tướng thần”, Ông được người đời xưng tụng là “vạn cổ nhất
nhân”. Ngài họ Quan, tên Võ (hay Vũ), tự là Thọ Trường, sau đổi lại là Vân Trường,
[2] Hai năm 2020 và 2021
do dịch covid và để thực hiện chủ trương giãn cách của chính phủ, Thất phủ cổ
miếu chỉ tổ chức nghi lễ truyền thống tại miếu thờ.