Bài viết của Khúc Hà Linh
Nguồn: Tạp chí Văn nghệ Đồng Nai số 43
Thơ lục bát còn
gọi là thơ trên sáu dưới tám, bởi lục là sáu, bát là tám. Thường mở đầu bằng
câu thơ có sáu từ, rồi tiếp theo là câu tám từ, và cứ thế xen kẽ một câu sáu lại
một câu tám… cho đến hết bài thơ. Truyện Kiều của Nguyễn Du là tác phẩm thơ lục
bát tiêu biểu, một áng văn chương châu báu của dân tộc. Mở đầu Truyện Kiều là
câu sáu “Trăm năm trong cõi người ta”, vượt qua 3254 câu thơ, rồi được kết thúc
bằng câu tám “Mua vui cũng được một vài trống canh”. Nhưng biệt lệ có bài thơ lại
kết thúc ở câu sáu, tạo nên một trạng thái lửng lơ để người đọc tự suy ngẫm...
Thơ lục bát dễ đọc, dễ thuộc. Nhiều người
không biết chữ, nhưng vẫn thuộc hết cả Truyện Kiều. Các cụ già ở làng quê cũng
mượn thể lục bát mà làm thành những bài ca dao mộc mạc, thành câu vần vè để
giao lưu và giãi bày tâm sự?
Nhưng thực ra
làm một bài thơ lục bát hay, thật khó.
Ảnh nghệ thuật của Mạnh Hà
1. Thể
cách thơ lục bát
a. Niêm luật thơ
lục bát
Niêm chữ Hán có
nghĩa là dính. Nó có sự dính kết giữa các từ trong câu thơ một cách hợp lý với
nhau. Khi vị trí “từ” đúng thể cách, khuôn phép ấy là luật. Bài thơ sử dụng từ
sai quy cách, ấy là thất niêm - sai niêm luật.
Khác hẳn thơ Đường,
thơ lục bát có niêm luật khá giản dị.
Một cách thông
thường nhất là từ thứ 6 của câu sáu; từ thứ 6 và từ thứ 8 của câu tám là thanh
bằng (tức không dấu và dấu huyền):
Trăm năm trong
cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh
khéo là ghét nhau.
(Kiều)
Trường hợp đặc
biệt từ thứ 6 của câu sáu và từ thứ 6 của câu tám đều là thanh trắc(dấu ngã, nặng,
hỏi):
Tò vò mày nuôi
con nhện
Ngày sau nó lớn
nó quện nhau đi
(Ca dao)
b. Thơ lục bát
cũng có luật bằng trắc
Đọc một bài thơ
lục bát ta thường nghe thấy âm điệu dào dạt hay khoan thai là bởi nhạc điệu của
thanh âm nặng nhẹ, bằng trắc của những từ ngữ trong mỗi câu thơ.
Đêm qua mới gọi
là đêm
Ruột xót như muối
dạ mềm như dưa.
Mong chàng như
cá mong mưa
Nhớ chàng như nhớ
bữa trưa đói lòng.
(Ca dao)
Để cho câu thơ lục bát thanh thoát, người ta
thường phải thay đổi âm thanh của chữ thứ 6 và chữ thứ 8 của câu tám. Cụ thể là
hễ chữ này không dấu thì chữ kia có dấu huyền và ngược lại.
Nếu không tuân
thủ nguyên tắc này sẽ tạo ra những câu thơ vô nghĩa.
2. Vần và
gieo vần
Thơ Đường có vần
chân (ở cuối câu) chữ Hán gọi là cước vận. Thơ lục bát có vần chân và thêm vần
lưng (ở giữa câu) gọi là yêu vận. Tuy khác nhau về vị trí nhưng chúng đều có chức
năng lặp lại ngữ âm làm cho dòng này chuyển sang dòng khác, ý này nối sang ý
kia, làm cho mạch thơ gắn với nhau và tạo nên câu thơ uyển chuyển nhẹ nhàng.
Ngoài vần lưng và vần chân, thơ lục bát còn có vần chính và vần thông
+ Vần chính:
Rất thông dụng
là chữ cuối cùng của câu 6, vần với chữ thứ sáu của câu 8:
Đêm qua mới gọi
là đêm
Ruột xót như muối
dạ mềm như dưa.
Gặp những câu
thơ như thế, người đọc cảm thấy êm ái, nhẹ nhàng và thú vị.
+ Vần thông:
Nhưng trong trường
ca, hay truyện thơ dài như Kiều, nhà thơ không phải lúc nào cũng tìm được những
từ trùng âm, đúng vần mà ý tứ phù hợp tình tiết câu chuyện đang mô tả. Vì thế
phải dùng những từ có âm điệu na ná như nhau, gần nhau nhưng không hề bị lạc
lõng. Như thế gọi là vần thông..
Ví dụ đoạn thơ
sau:
Rằng năm Gia
Tĩnh triều Minh
Bốn phương phẳng
lặng hai kinh vững vàng
Có nhà viên ngoại
họ Vương
Gia tư nghĩ cũng
thường thường bậc trung
Một trai con thứ
rốt lòng
(Chữ vàng
gieo xuống Vương; trung gieo với lòng…
đều là vần thông). Chúng tuy không trùng âm, nhưng đọc lên người nghe vẫn không
bị lạc lõng điệu giọng. Có rất nhiều ví dụ trong thơ lục bát Việt Nam.
+ Hiện tượng
trùng ngữ
Một điều rất cần
chú ý là để bài thơ lục bát đỡ nhàm vì đơn điệu, người ta cố gắng để không
trùng ngữ trong những đoạn thơ quá gần nhau. Thường sau hai chục dòng thơ mới để
trùng ngữ. Khi đó mạch thơ đã giãn ra, với những nội dung tương đối đa dạng, sẽ
không tạo ra cảm giác bị lặp lại và nghèo nàn ngôn ngữ.
Ví dụ đoạn thơ
như sau nên tránh vì trùng ngữ:
Nhớ em thở ngắn
than dài
Nhớ em ngơ ngẩn
canh dài không yên.
Mới có 2 câu
thơ, đã bị trùng ngữ than dài và canh dài tạo thành sự nhàm chán
đến phản cảm.
Xét đoạn truyện
Kiều sau đây:
Nẻo xa, mới tỏ mặt
người
Khách đà xuống
ngựa, tới nơi tự tình.
Hài văn lần bước
dặm xanh
Một vùng như thể
cây quỳnh cành giao.
Chàng Vương quen
mặt ra chào,
Hai Kiều e lệ
nép vào dưới hoa.
Qua 6 câu thơ chỉ
có một vần thông (tình gieo xuống xanh, quỳnh), chứ tuyệt nhiên không có trùng
ngữ, nên cả đoạn thơ vừa êm tai lại vừa hấp dẫn không bị nhàm chán.
3. Nhịp,
và đối trong thơ lục bát
Có thể coi nhịp
là tiết tấu của câu thơ. Nếu cứ một nhịp đều đều thì chỉ vài ba câu thơ là khiến
cho người đọc nhàm chán. Vì thế nhà thơ thường tìm cách thay đổi nhịp để tránh
lì mòn tẻ nhạt, giống như trong âm nhạc người ta thay đổi tiết tấu và giai điệu.
Thơ lục bát thường xen vào các nhịp 2-3-4 một cách linh hoạt, không gò bó làm
cho câu thơ tung tẩy hoặc dịu dàng, khoan thưa hay dồn dập tuỳ thuộc vào tình
huống của mạch thơ.
Ví dụ: Ngày
xuân/ con én đưa thoi (nhịp 2- 4)
Thiều quang chín
chục/ đã ngoài sáu mươi (nhịp 4 -4)
Hoặc: Kiều
càng sắc sảo/ mặn mà (nhịp 4 - 2)
So bề tài sắc/ lại
là phần hơn (nhịp 4 - 4)
Hoặc: Người nách thước/ kẻ tay dao (nhịp 3 -3)
Đầu trâu/ mặt ngựa/
ào ào như sôi (nhịp 2 -2- 4)
Rõ ràng đọc những
câu có nhịp khác nhau, ta thấy nhạc điệu phong phú và tạo ra cảm xúc luôn luôn
mới.
4. Về đối
trong thơ lục bát.
Về nguyên tắc,
thơ lục bát không phải đối. Tuy nhiên trong các trường hợp cụ thể người ta vẫn
dùng tiểu đối để cho câu thơ được rành mạch, khúc chiết gây hiệu quả xúc cảm
cao hơn.
* Có khi tiểu đối
trong một câu thơ:
Người nách thước,
kẻ tay dao
(người - kẻ;
nách- tay; thước - dao là đối nhau)
* Có khi tiểu đối
ở hai câu thơ sáu và câu tám:
Đầu năm ăn quả
thanh yên
Cuối năm ăn bưởi
cho nên đèo bòng.
(Đầu năm ở câu
sáu - Cuối năm ở câu tám đối nhau. Thanh yên ở câu sáu và bưởi ở câu tám đối
nhau).
* Có khi chỉ là
đối ý:
- Đũa mốc lại
chòi mâm son…
- Lọng vàng che
nải chuối xanh
Tiếc cho loan
phượng đậu cành tre khô
* Có khi đối
chéo ở hai câu sáu và tám:
Khách tình lại
nhớ thuyền tình
Thuyền tình lại nhớ khách tình là duyên.
* Cũng như thể
thơ luật Đường, thơ lục bát khi cần đối, vẫn phải đối nhau theo từ loại. Một ví
dụ khá tiêu biểu là:
Làn thu thuỷ,
nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm,
liễu hờn kém xanh.
(Kiều)
Ta thấy các danh
từ đối nhau: thu với xuân, thuỷ với sơn, hoa với liễu. Tính từ thắm với xanh, động
từ ghen với hờn, phó từ thua với kém; quán từ làn và nét đối nhau rất chỉnh.
Làm cho ý tứ so sánh càng nổi bật.
5. Lục
bát biến thể:
Lục bát chính thể
chỉ có câu sáu và câu tám hoàn chỉnh. Còn lục bát biến thể nó phát triển các
câu lục bát hoàn chỉnh ra, giãn ra trên cơ sở cái cốt cũ chứ không hề phá vỡ.
Quá trình phát triển của đời sống, con người đã thừa hưởng cái đẹp của thơ lục
bát để soạn ca từ cho các bài ca. Họ đã thêm chữ đệm, làm rõ ý hơn của bài thơ.
Các nhạc sĩ, nghệ sĩ dân gian thường sử dụng lục bát biến thể để sáng tạo ra một
loại hình nghệ thuật mới. Đó là bài hát chèo, dân ca, chầu văn, quan họ… v.v.
Bởi thế thơ lục
bát bình dân mà biến hóa khôn lường!
K.H.L