ThS. Nguyễn Văn Nhật Thành
(Trường THPT Vĩnh Định – Triệu Phong – Quảng
Trị)
Ngôn ngữ văn chương là đại
diện tiêu biểu của ngôn ngữ văn hoá, dạng thức tồn tại “toàn vẹn nhất, sáng chói nhất” của ngôn ngữ toàn dân. Nói đến ngôn
ngữ văn chương là nói đến chức năng thẩm mĩ, đến giá trị tạo hình, giá trị biểu
trưng, biểu cảm to lớn. Để ngôn ngữ nghệ thuật có thể khắc chân thực, sinh động
bức tranh cuộc sống thì việc huy động, sử dụng nhằm khai thác thật tốt khả
năng, tiềm năng của các phương tiện ngôn ngữ là một việc làm không thể thiếu.
Khu vực Nam bộ đất đai rộng
lớn, phì nhiêu, hệ thống kênh rạch chằng chịt đồng thời là vùng đất với lịch sử
hơn ba trăm năm khẩn hoang của người Việt. Cảnh vật, thiên nhiên và con người Nam
bộ từ lâu đã gây dựng được sự chú ý của nhiều người cầm bút và không ít người
trong số đó gặt hái được nhiều thành công mà Hồ Kiên Giang không phải là một
trường hợp ngoại lệ. Đến với Nam bộ, Hồ Kiên Giang phải huy động vốn sống, vốn
hiểu biết về tiếng nói địa phương từ ngữ âm, từ vựng đến ngữ pháp trong xây dựng
tác phẩm. Đây là nhân tố quy định ngoài ngôn ngữ mang tính khách quan và cũng
là con đường để tác giả có thể tái hiện trung thực bức tranh đời sống như vốn
dĩ của nó. Tập truyện ngắn “Trên núi
Tưk-cot” được xuất bản năm 2021, đó là một quá trình sáng tạo không mệt mỏi
của Hồ Kiên Giang và đã nhanh chóng gây sự chú ý và thu hút đối với độc giả và
giới phê bình. Có ý kiến cho rằng, tập truyện ngắn “Trên núi Tưk-cot” hấp dẫn người đọc ở cái đẹp dân dã, mộc mạc mang
tính địa phương được thể hiện hết sức tinh tế. Chính cái đẹp ấy đã gợi lên
trong lòng người xa xứ nỗi nhớ quê hương da diết. Cũng chính cái đẹp ấy lại khiến
những người chưa một lần đặt chân đến vùng đất của Hồ Kiên Giang phải tò mò tìm
đến. Tập truyện ngắn “Trên núi Tưk-cot”còn
hấp dẫn bởi chất Nam bộ thấm đẫm trong ngôn ngữ tác phẩm khiến cho không gian Nam
bộ hiện lên chân thực, sống động. Sự lạ hoá kết câu văn bản cũng làm tăng hiệu
quả của lối kể chuyện dung dị, hấp dẫn rất Hồ Kiên Giang. Với Hồ
Kiên Giang, viết văn không đơn thuần là trò làm xiếc bằng ngôn từ mà là cách
ứng xử khoa học và đầy tâm huyết của một nhà văn. Những trang văn của Hồ Kiên
Giang vẫn là những văn bản đa thanh kì diệu, mở ra bát ngát những liên tưởng từ
những ngôn ngữ lạ lẫm, đầy cá tính sáng tạo.
1. Ngôn ngữ dẫn truyện mang màu sắc văn hoá Nam
bộ
Ngôn
ngữ là một trong những phương diện bộc lộ đặc điểm văn hóa vùng miền và cũng là
yếu tố đem lại thành công, đặc sắc của các tác phẩm. Phương ngữ Nam bộ được Hồ
Kiên Giang sử dụng một cách thuần thục vào việc thể hiện ngôn ngữ trong lời ăn
tiếng nói thường ngày, trong từng ngữ cảnh cụ thể của nhân vật. Cũng tả
cảnh, tả người và sự việc nhưng ngôn ngữ của Hồ Kiên Giang trong các truyện ngắn
đã khác xa thời Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam… và sau này là Nguyễn
Ngọc Tư. Nhiều từ ngữ Nam bộ được anh đưa vào đúng lúc, đúng chỗ, khắc họa chiều
sâu tâm lý nhân vật và cảnh sắc thiên nhiên vùng sông nước. Bằng tất cả những vốn sống, am hiểu về văn
hoá Nam bộ, đặc biệt là phương ngữ, Hồ Kiên Giang đã tạo cho mình phong cách
dẫn truyện, cách dùng từ ngữ đậm chất Nam bộ.
Chất
văn hoá Nam bộ trong ngôn ngữ tác giả trước hết thể hiện ở những lớp từ ngữ đậm
chất Nam bộ.Viết về miền sông nước nên Hồ Kiên Giang cũng đã sử dụng lớp từ ngữ
sông nước đặc trưng. Lớp từ ngữ phản ánh địa hình, cây cối, sông nước của miền
sông nước Nam bộ xuất hiện trong hầu hết những sáng tác của anh như: sông, kinh, bến rạch, mương, gò cao, nước
lớn, vùng lũ, mùa nước rong, gió chướng, gió bấc, ghe, xuồng... hay các
loại cây, con vật đặc trưng như:dừa nước,
bông lục bình, rừng tràm, mía, vú sữa, rau muống, bìm bịp, lá cọ, cá nhảy hầm,…Việc
sử dụng lớp từ này không chỉ góp phần làm nổi bật lên những nét đặc trưng của
vùng sông nước mà còn góp phần làm phong phú thêm vốn từ vựng tiếng Việt trong
các tác phẩm. Lớp từ phương ngữ Nam bộ cũng được nhà văn vận dụng tối đa
trong tác phẩm. Đó là các từ xưng hô, từ đệm, cách sử dụng các thành ngữ đậm
chất Nam bộ. Trong cách nói của người Nam bộ có một hiện tượng đáng lưu ý. Đó
là cách xưng gọi, và cách dùng từ xưng gọi. Người Nam bộ có thói quen gọi tên
kết hợp với thứ bậc hay đặc điểm của nhân vật. Nhiều nhân vật trong các tác
phẩm cũng được Hồ Kiên Giang đặt tên, gọi tên theo cách xưng hô như vậy như:
trong Đào Nhì (bà chị Hai); Thước phim đời người (thằng Út, thằng
Tới); Gò cao vùng lũ (dì Tư bánh bò,
anh Tám, ông Hai ghe hàng, thằng Tí, con Sửu); hay ở Người con gái trên đồi sim (Dì Út bên Nam Vang, bé Hai); hay trong Gió bấc qua đồng (chị Hai, Dì Sáu); Út Đẹt (anh Hai Đạt, chị Ba Đèo, dượng Tư, Út Đẹt, thằng Tí); Khách miệt vườn (bé Hai, dì Út, Tư Kiên,
Năm Cường, chị Tư); Những đêm mất ngủ (Dì
Hai Thuỷ, dì Tư, chị Hai); Bìm bịp kêu
kêu khắc khoải (thằng Tiến, thằng Cường, anh Hai, bác Tám), Mùa này mía chẳng trổ bông (chị Hạnh con
bác Tám, con Thuỷ con chú Hai); Lính mới (con
Yến, thằng Kha, dì Tư, dượng Tư). Trong văn hoá ứng xử của người Nam bộ, kiểu
xưng hô này làm người nghe cảm thấy gần gũi, có sự kết nối với nhau, thân thiết
như những thành viên trong gia đình, cho dù đó là những người lạ với nhau. Điều
này xuất phát từ xa xưa, khi khai phá vùng đất mới, lúc ấy đất rộng người thưa,
con người cảm thấy cô đơn lạc lõng nên cần được chia sẻ, quan tâm nhau bằng
tình cảm chân thật, thân thiết. Do vậy, lối xưng hô này trở thành một nét văn
hoá giao tiếp của người dân. Hồ Kiên Giang cũng rất am hiểu lối xưng hô này khi
ông đã có những giới thiệu, lý giải về các tên gọi: Dì Tư bánh bòtrong “Gò cao
vùng lũ”: Tôi ở đây một mình, hàng ngày
làm bánh bò bán nên mọi người hay kêu tôi là dì Tư bánh bò [tr.46]. Hay đó
là sự lí giải về tên gọi trong “Những đêm mất ngủ”: Hồi sanh con, tía má đặt tên con là Biển để sau này con thay tía ra
khơi. Còn hai đứa em con tên Bình và Minh là mong muốn mỗi sáng về ghe đầy tôm
cá, là một ngày mới có nhiều thuận lợi [tr.170]; hay trong “Những giấc mơ
biên thuỳ”: “Nghĩa. Nguyễn Minh Nghĩa.
Minh là minh mẫn, còn nghĩa là nghĩa nhân ấy mà. Lúc sanh tôi ra tía má tôi đặt
như vậy” [tr.85].
Ngôn
ngữ dẫn truyện cũng mang đậm màu sắc Nam bộ khi tác giả thường xuyên sử dụng
những phương ngữ Nam bộ.Nhà văn hay sử dụng các danh từ đặc trưng như: tía, má, thằng, tao, cưng, miểng, cổ, ảnh...
Đặc biệt, Hồ Kiên Giang cũng rất thành công khi đưa thành ngữ vào trong ngôn
ngữ dẫn truyện một cách linh hoạt, theo đúng phong cách Nam bộ. Đó là những
thành ngữ được đưa trực tiếp vào lời văn: đầu
đường xó chợ; rày đây mai đó, đụng đâu bạ đấy, ong bướm lả lơi trong Đào Nhì; nhất quá tam nhì ba bận (quá
tam ba bận) trong Út Đẹt; dầm mưa dãi nắngtrong Khách miệt vườn; bán mặt cho biển, bán lưng
cho trời (bán mặt cho đất, bán lưng cho trời) trong Những đêm mất ngủ; ăn tươi nuốt sống trong Trên núi Tưk-cot; tha phương cầu thực, dựng vợ gả chồng trong Mùa này mía chẳng trổ bông. Với sự vận
dụng những thành ngữ có tính chất khẩu ngữ và có sự biến đổi về hình thức phát
âm theo tiếng nói, phù hợp với tính cách của người dân Nam bộ, Nguyễn Thi đã
tạo được một cách rõ nét sắc thái dân gian Nam bộ trong các sáng tác của mình.
Hay đó
là các câu tiếng lóng: hết trơn hết trọi.
Có khi trong một câu văn, nhà văn sử dụng hàng loạt phương ngữ:“Dì mở cửa toang hoác, ngồi đập muỗi đôm đốp
ngó ra sân đợi sáng” [tr.43]; “ghe
ông Hai dạng ghe lườn, có mui bằng van, ông chèo tình tang sau lái. Khi ghe tấp
vô, dì nhìn ngó trong mui không có ai, còn ông thì buông tay chèo nhoài người
vào mui lần ra mui ghe cười xởi lởi” [tr.46]; “Mỗi lần anh Hai Đạt nghe nó thốt ra liền nhảy dựng lên: “con này tao
tát cái chết quá. Ngu tới nỗi cái gì cũng hỏi!”. Chị Ba Đèo thì nhẹ nhàng hơn,
nhưng hỏi ngược lại: “Út nói câu khác đi. Ở đây không có ai tên “Ta” đâu
nghen!” [tr.137]; “ông đem cái lò
xuống gh dùm tui đi. Con Nhân đâu, lấy mấy cái lưỡi hái giắt trên vách cho má.
Thằng Ái rửa mặt rồi vô thay đồ đặng đi nè!...Nhân à, ở nhà coi chừng bầy gà
mái đẻ, cắt dây chuối dìa ủ cho heo”. [tr.154]; “Người địa phương ít học, quê mùa gọi thẳng đuột họ là dân mần mướn.
Còn kẻ hiểu biết tí chút về ngôn ngữ văn chương, thích dùng chữ nghĩa thì tặng
cho họ một cái tên mĩ miều là khách miệt vườn”[tr.156].
Phong
cách diễn đạt là phương diện thể hiện rõ lối tư duy của người Nam bộ. Qua tác
phẩm của Hồ Kiên Giang, ta dễ dàng nhận ra cách diễn đạt rất đặc trưng của
người miền Nam. Đặc điểm dễ nhận ra ở phong cách dẫn truyện của anh là phong
cách diễn đạt bình dân, có nhiều yếu tố từ ngữ giản dị và mộc mạc,
những câu ngắn gọn, từ ngữ đặc trưng. Đặc điểm này phù hợp với đời sống và
tính cách của người Nam bộ. Đó là lối văn điển hình của “văn phong Nam bộ”.
Để tạo
không khí dẫn truyện, dẫn dắt như những lời kể chuyện hàng ngày giữa những
người dân Nam bộ, Hồ Kiên Giang đã tạo cho mình phong cách dẫn truyện mang
phong cách Nam bộ. Như cách nhà văn giới thiệu về gió bấc thổi về làng trong Gió bấc qua đồng:“Độ khoảng tháng mười,
tháng mười một ta là gió bấc về. Gió lao xao trên đọt bần trước cửa. Gió tràn
trề trên mặt sông bàng bạc phù sa. Gió ngập đồng menh mông sóng lúa. Đầu mùa
thì lạnh ít. Càng cuối mùa càng lạnh nhiều. Rồi sau tết chuyển mùa, đổi gió
bằng không khí nóng bức” [tr.97], miêu tả hình dáng, khuôn mặt của nhân vật
Chanh Đa trong Trên núi Tưk-cot: “ông Chanh Đa gần bảy mươi tuổi, dáng ốm
nhom, lòng khòng, da đen thui, mốc sì. Mái tóc xoăn nhiều năm không được cắt
tỉa, chải chuốt rối bù như mớ bòng bong, càng làm gương mặt hốc hác của ông nhỏ
lại khắc khổ” [tr.116]; nhân vật Út Đẹt trong truyện ngắn cùng tên Út Đẹt: “Út Đẹt không đẹp, gia đình không
giàu, nhưng ai cũng khen nó dê thương, chưa bao giờ thấy nó buồn phiền hay giận
hờn ai cả” [tr.137]. Người đọc dễ dàng hình dung được những gì nhà văn miêu
tả từ những thông tin ngắn gọn nhưng rất đầy đủ đó mà nhà văn nói đến.
Phong
cách kể chuyện của Hồ Kiên Giang cũng mang dáng dấp phong vị dân gian Nam bộ. Đó
là nhiều lúc người kể cũng tham gia trực tiếp vào câu chuyện, bày tỏ cảm xúc
chủ quan của mình. Có khi người kể chuyện đóng vai trò như một nhân vật trong
truyện để trực tiếp kể lại những gì mình mắt thấy tai nghe. Hay rất nhiều đoạn
nhà văn vừa kể chuyện vừa nhập thân vào nhân vật để miêu tả cảm xúc của nhân
vật đó là cái chết của thằng Tí và con Sửu khi bị bọn Lon-non cầm súng giết
trong Gò cao vùng lũ: “Miệng dì há hốc mà gọi không thành tiếng.
Hai đứa em của dì đó sao? Nó nằm co quắp, khô đét, Mắt mở trừng trừng. Vùng
bụng hai đứa là một đống bầy nhầy, dòi bọ lúc nhúc. Máu thấm vào đất đen thẫm.
Và một mùi tanh tởm lợm vo tròn, đặc quánh trong căn nhà vắng lạnh”.
[tr.55]; cũng miêu tả về người cha khi bị Tây bắn chết trong Gió bấc qua đồng: “trước mắt tôi ba nằm bất
động trên vũng máu đỏ tươi, mắt mở trừng trừng như có sao, có lửa. Chị Hai gục
đầu trên ngực ba, nơi có nhiều lỗ tròn bằng ngón tay và máu đang trào ra, vai
chị rụng từng đợt theo từng tiếng nấc nghẹn”. [tr.100]
Cũng
như phong cách kể khan đặc trưng của
sử thi Tây Nguyên, phong cách kể chuyện của dân gian Nam bộ mang đặc trưng
riêng: đề cao lối kể ngắn gọn, dễ hiểu và tạo cảm xúc lôi cuốn qua sự kết nối
giữa người kể và người nghe. Những đặc điểm này phù hợp với lối sống thích đơn
giản, ngắn gọn và chân tình của người Nam bộ. Tạo được một phong cách dẫn
truyện mang đậm chất dân gian Nam bộ như thế trong các tác phẩm là một thành
công của Hồ Kiên Giang.
2.
Ngôn ngữ đối thoại (hay ngôn ngữ nhân vật) là ngôn ngữ đời thường trần trụi của
người dân Nam bộ
Thu hẹp khoảng cách giữa truyện kể và những “chuyện” của hiện thực, ngôn ngữ văn
chương sau 1975 trở nên gần gũi với ngôn ngữ đời sống hơn bao giờ hết. Có sự
xuất hiện của những khẩu ngữ, ngôn ngữ đặc trưng vùng miền. Có kiểu phát ngôn
trần trụi, không gọt giũa của thứ ngôn ngữ “chợ
búa”. Những tiếng lóng, những câu chửi thề được sử dụng khá thường xuyên để
phê phán một mảng xã hội bề bộn mọi chuẩn mực đạo đức bị đảo lộn, nhiều cây bút
đã không ngại sử dụng thứ ngôn ngữ trần thuật “thiếu văn hóa”, ngôn ngữ “phố
phường” thời hiện đại. Sử dụng thuần thục phương ngữ Nam bộ nên Hồ Kiên
Giang đã thành công khi đưa ngôn ngữ của đời sống vào tác phẩm của mình một
cách tự nhiên. Và cũng chính vì thế nên nhân vật của anh luôn tạo cho người đọc
sự gần gũi thân thuộc, thậm chí nhà văn còn mạnh tay hơn so với nhiều cây bút
khác trong việc sử dụng ngôn ngữ đời thường “trần
trụi” trong lời kể. Điều ấy lặp đi lặp lại tạo thành một thứ ngôn ngữ nhất
quán trong sáng tác của Hồ Kiên Giang.
Điều đầu tiên dễ nhận thấy trong văn Nguyễn
Khắc Phê là sự dung nạp những phong cách khẩu ngữ sinh hoạt trong ngôn ngữ nhân
vật dày đặc, và có thể gặp ở bất kỳ đâu trong cuộc sống thường nhật đó lời ăn
tiếng nói hằng ngày của người Nam bộ. Người Nam bộ chuộng lối xưng hô thân mật,
dân dã, suồng sã cũng như chính lối sống của họ vậy từ những người bằng vai
phải lứa, những người nhỏ tuổi hơn mìnhngười Nam bộ thường xưng “mày - tao” để
tỏ sự thân mật hay đơn giản là là xưng “tôi - tui” gọi tên người khác khi giao
tiếp hay đó là những từ và cụm từ mang đặc trưng văn hoá Nam bộ và chỉ có vùng Nam
bộ mới có được:“Láo xược! Ai dạy mày vậy
hả? Tao ngồi cả tiếng đồng hồ với thằng Kiên có thấy mày đâu?!”, “Từ nay, tao
cấm mày giao du với con đào hát đó, nghe chưa!” trong Đào Nhì; “Bà Mết ơi…sao bà bỏ tui” trong Trên núi Tưk-cot. Mặt khác, cũng có hệ thống từ đệm trong câu nói.
Các từ đệm kết hợp với ngữ điệu sẽ tạo ra sắc thái địa phương rõ rệt của từng
vùng miền: “Ừ hén” (Đào Nhì), “Sao vậy ta?Hay là Lan đã nảy sinh tình cảm
với thằng Út” (Thước phim đời người); “Vùng
này mùa lũ ngập hết trơn hết trọi, có chừa chỗ nào đâu”, “Mèn đét ơi!” (Gò
cao vùng lũ); “cũng được hén”, “nè, ông
ăn thử coi”, “coi chừng cây độc ăn chết thấy mô tổ nghen!” (Người con gái
trên đồi sim); “cưng đừng có la nghen”,
“Hổng chịu đâu. Em đi!”, “Em hổng chịu. Ba về em méc ba” (Gió bấc qua
đồng); “Chèn ơi! Có nước mắm Phú Quốc nữa
à”;(Trên núi Tưk-cot); “Kỳ vậy ta”,
“Ủa thiệt hả má?, “Bộ Út chê tôi hả? Kỳ vậy ta!”, “Vậy Út đợi tôi hai năm nữa
nghen!” (Út Đẹt); “Đi bây giờ cho kịp
nước xuôi. Đợi mặt trời mọc chèo ngược nước thấy mẹ à!”, “má đi chừng nửa tháng
má dìa”, “Nè, ly rượu này cạn nghen”, “Miểng. Miểng gì? Không biết”, “Bửa hổm
anh nói mướn…cái gì…dàn đờn dàn điếc gì đó, được chưa” (Khách miệt vườn); “Dìa nhà tôi lấy đồ mặc”, “em thay bộ này
nè”, “Lài !Em chờ anh hén. Năm năm”(Mùa này lúa chẳng trổ bông),… Tuỳ vào
đối tượng, tình huống giao tiếp mà các nhân vật có những xưng hô khác nhau. Lối
xưng hô này có thể được xem như là sản phẩm của môi trường sống. Mỗi người đều
có thể nhấn mạnh đến cái tôi cá nhân của mình và ý thức được vai trò xã hội của
mình. Mặt khác, lối xưng hô này một phần cũng đã phản ánh thái độ phóng khoáng,
bình đẳng như chính thiên nhiên nơi đây đã có. Và quan trọng hơn, qua cách xưng
hô đó, người Nam bộ luôn đề cao sự thẳng thắn, bộc trực trong giao tiếp. Ngôn
ngữ như một dòng chảy tự nhiên không qua chưa được sắp xếp.
Đọc văn của Hồ Kiên Giang, người ta có cảm
giác ngôn ngữ đang ở trong trạng thái nguyên thủy, không pha trộn màu mè. Có
những câu văn cụt ngủn, lửng lơ như lời nói hằng ngày chưa được dàn xếp theo
quy luật của văn chương khi Tùng nói với Hiếu trong Đào Nhì: “Giờ, Hiếu được mấy
cháu rồi? Vẫn hạnh phúc chứ?. Ông thấy trong mắt bà đầy áp những hờn, những
giận. Giọng bà ráo hoảnh: “Hạnh phúc? Em đã có chồng đâu mà con với cái!”. Sao?
Hiếu…”Hiếu thở dài. Tiếng thở man mác buồn lan sang cả ông” [tr.20].
Nhưng nhiều hơn cả là những câu văn dài, rườm rà nhiều hư
từ, giới từ, văn nói và văn viết không thể tách bạch trong Khách miệt vườn: “Chẳng hiểu
sao khách miệt vườn khi đã đến nơi thường hay ngã bệnh, không biết có phải do
lạ chỗ, lạ nơi, không quen với thời tiết khí hậu; hay vì mấy ngày đi đường dầm
mưa dãi nắng cho chuyến hành trình; hoặc sau thời gian nhàn rỗi công việc đồng
áng, nay ra ngoài đồng “nắng không ưa, mưa không chịu, ghét gió, kỵ mùa sương… nên
ngã bệnh” [tr.162].
Trong những trường hợp này, ngôn ngữ của Hồ Kiên Giang
mang tính chất nguyên sơ, tự nhiên, một thứ ngôn ngữ nguyên chất, trần trụi với
ngôn ngữ hằng ngày sinh động đầy biến hóa. Ngôn ngữ như vậy không đơn thuần là
những kí hiệu mà là một chất liệu làm hiện hình trực tiếp một trạng thái đời
sống. Nó không phải qua trung gian phiên dịch các kí hiệu của tư duy mà tác
động ngay vào cảm giác của người đọc, cho ta những cảm giác trực tiếp về đời
sống. Có thể là cảm giác pha tạp ngổn ngang, có thể là cảm giác tẻ nhạt, công
thức đến vô nghĩa nhưng quan trọng hơn nó luôn tạo ra một cảm giác chân thực về
cuộc đời.
Mặt khác, ngôn ngữ đời thường trần trụi trong văn của Hồ
Kiên Giang còn thể hiện đậm nét ở cách ông sử dụng những từ ngữ thông tục. Đọc truyện
Hồ Kiên Giang, ta sẽ không bắt gặp một, hai từ chêm xen thông tục trên tổng thể
là lượt, gọt giũa giống ngôn ngữ cổ điển của Tú Xương, Hồ Xuân Hương, Nguyễn
Khuyến mà anh có vẻ gần gũi hơn với Vũ Trọng Phụng trong Số đỏ, song táo bạo hơn bằng cách tung ra một dòng thác những ngôn
từ bỗ bã về bất kỳ đối tượng nào được đề cập tới.
Khi triết lý về cuộc sống thường nhật trong suy nghĩ của
Tùng trong Đào Nhìvề sự lựa chọn tình
cảm hay nghe theo sự sắp đặt của gia đình:“Anh
lên giường nằm nhưng không thể chợp mắt được. Bao nhiêu ước mơ, dự tính về một
tương lai tươi đẹp, hạnh phúc đang bị héo mòn dần. Anh thấy mình trơ trọi giữa
ngã ba đường, chơi vơi giữa ngã ba sông. Đi hướng nào đây, bên tình hay bên
hiếu.”[tr.15]; Hay văn của Hồ Kiên Giang có nhiều so sánh, miêu tả độc đáo,
hay là theo kiểu dạng điệp từ, ngữ: “Đời
nghệ sĩ như bông lục bình vừa nở, vừa trôi, lặng lẽ mang hương sắc, trang điểm
cho đời” [tr.71]; “Giọng bà Mết vang
lên lanh lảnh bên tai Hiếu. Tiếp đó một làn gió ào ào qua. Bà Mết giang tay như
cánh chim bay vút lên cao, rồi đáp trên một mỏm đá, nhẹ hều.” [tr.130]; “Đêm tân hôn, Út Đẹt bị chồng“bào” như cái
việc bào ván hàng ngày của chồng. Trời đất, nó chợt nghĩ chẳng lẽ thợ mộc thì
“bào” như vậy, còn thợ hồ anh Điền thì phải “trộn” rồi mới “xây”, còn thằng Tí
chuyên môn nuôi vịt thì sau này lấy vợ chắc như… đạp vịt” [tr.16]; “Em đã cố dặn lòng để hoá thân vào từng vai
diễn, để được thương, được ghét, được vui buồn, được đau khổ, hạnh phúc” [tr.20];
“Thương quá Chiến ơi! Thương bản tính
hiền lành, chân chất, thiệt thà con người miền biển Cà Mau quê em. Thương nét
chữ lớp ba ngoằn ngoèo em viết thư gửi về cho ba má. Thương tuổi mười bảy con
trai chưa một lần nếm trải vị ngọt ngào hay đắng chát của tình yêu đầu đời.
Thương ba tháng tuổi quân ngắn ngủi” [tr.81], “Anh thấy mình như sắp tan ra, sắp trôi đi, sắp hoá thành sương thành
khói mong manh thì phải” [tr.92]; “Anh
yêu cái thao trường đầy nắng chang chang và gió bụi. Anh say mê các phương pháp
đánh địch tiến công hoặc phòng ngự, lúc mở cửa hay trong công sự. Anh thích thú
khi tưới những luống rau cải xanh rờn nhờ bàn tay chăm bón của những người
lính” [tr.173].
Cũng như những con người bình thường khác, mỗi nhà văn
thường neo đậu hồn mình với một địa danh, một quê hương mình gắn bó. Thể hiện
hình bóng quê hương trên trang viết là một trong những cách đền đáp nghĩa tình
đối với mảnh đất mà họ yêu thương. Và việc lấy phương ngữ nơi mảnh đất mình gắn
bó làm ngôn ngữ biểu đạt trong tác phẩm cũng là một hướng đi nhiều nhà văn lựa
chọn. Đọc văn Hồ Biểu Chánh, ta nhận ra chất Nam bộ trong hệ thống từ địa
phương được sử dụng dày đặc trong tác phẩm. Giọng văn Tô Hoài cho biết ông là
nhà văn của mảnh đất kinh kỳ Tràng An ngàn năm văn vật, gần với ngôn ngữ chuẩn
về ngữ âm nhưng có thể nhận ra cái riêng với vốn từ vựng ngữ nghĩa của một vùng
phương ngữ. Trong thực tế, nhà văn của phương ngữ Bắc chất phương ngữ ít lộ rõ,
bởi nó gần với ngôn ngữ chuẩn. Tác giả Hồ Kiên Giang là người con gắn bó với
vùng Nam bộ, lời ăn tiếng nói của con người nơi đây đã đi vào tác phẩm của ông
và thực sự đem lại giá trị thẩm mĩ đem đến cho người đọc cảm giác thú vị từ vốn
từ địa phương mới lạ, với những sắc thái nghĩa phong phú. Chính những yếu tố
ngôn ngữ này đã góp phần tạo nên lời văn sinh động, giàu sắc thái biểu cảm,
hiện thực được phản ánh lên trang viết với sự tinh nguyên, tươi rói vốn có của
cuộc sống.
Tác giả dùng từ địa phương với dụng ý nghệ thuật, xây
dựng hình tượng nhân vật gắn với một địa phương, gợi những tình cảm của người
đọc về một vùng đất đậm đà bản sắc văn hoá như: Cà Mau, Cần Thơ, Nam Vang, Gò Cao, Giang Thanh, U Minh, Bàu Môn, So
Đũa, Hoà Hưng, Năm Căn, Vàm Xáng,…. Ngoài ra, sự xuất hiện nó còn giúp cho
khoảng cách ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ đời sống dường như được rút ngắn,
đường ranh giới không còn rõ ràng, tính hiện thực của tác phẩm được nâng lên. Hồ
Kiên Giang dùng từ ngữ địa phương một cách hợp lí, đi vào lòng người, thuyết
phục độc giả bởi chất liệu cuộc sống chân thực. Màu sắc hiện thực từ địa phương
mang lại không kém phần tươi tắn và gây hiệu quả về cảm xúc nghệ thuật. Tất cả
đều trần trụi, ngồn ngộn đi vào trong tác phẩm của Hồ Kiên Giang một cách tự
nhiên, thoải mái như lời ăn tiếng nói của con người trong cuộc đời thực. Không
thể phủ nhận việc sử dụng đến mức lạm phát những ngôn ngữ bỗ bã cũng hạn chế
tính thẩm mỹ của tác phẩm, khiến đôi khi bạn đọc thấy “sốc”, khó chấp nhận nhưng thực ra nó hàm chứa trong đó cách ứng xử
riêng của anh với ngôn ngữ truyền thống và quan trong nó liên quan đến cách
tiếp cận đời sống riêng của ông.
***
Đọc văn của Hồ Kiên Giang khiến người ta chợt nghĩ về
chức năng của văn chương muôn đời. Văn chương ra đời là để lừa mị con người,
tạo cho người ta ảo tưởng về một thế giới đẹp đẽ hay văn chương giúp ta nhìn rõ
hơn, thấu đáo hơn trong mọi góc cạnh thực của nó. Hồ Kiên Giang phải chăng đã
cố ý tạo nên “một thế giới mà trong đó
nhìn vào đâu ta cũng thấy xấu ghê gớm” như một nhà nghiên cứu đã nhận định
hay đó là cách dấn thân vào văn chương với một thái độ dũng cảm của người nghệ
sĩ đầy trách nhiệm. Mỗi người thông qua tác phẩm của ông sẽ tìm thấy câu trả
lời cho riêng mình phụ thuộc vào trường thẩm mĩ và thái độ văn hóa của mỗi
người.
Phương
ngữ Nam bộ là tiếng nói của người dân Nam bộ. Đó là một thứ ngôn ngữ rất
chân quê, giản dị, nhưng lại cực kỳ phong phú, đa dạng. Hồ Kiên Giang không
ngại đã đưa những sắc thái ngôn ngữ vùng miền thường nhật của người Nam bộ vào
trong lời nói các nhân vật. Thông qua đó để thấy được tính cách, tâm lý ứng xử
của người Nam bộ: sự bộc trực, mộc mạc, dân dã, hào hiệp, trọng nghĩa,…của con
người Nam bộ. Đó cũng là thể hiện nét riêng trên phương diện ngôn ngữ giao tiếp
của văn hoá Nam bộ. Cách sử dụng phương ngữ khéo léo, tinh tế, tự nhiên của Hồ
Kiên Giang khiến bạn đọc ở miền Bắc hay miền Trung đọc không cảm thấy xa lạ,
không chỉ hiểu rõ nghĩa mà còn vô cùng thích thú chất “ngọt lịm” trong ngôn ngữ
của người phương Nam. Hồ Kiên Giang chắt lọc ngôn ngữ từ cuộc sống đưa vào
trong văn học một cách thản nhiên, nhẹ nhàng, không hề khiên cưỡng.“Trên núi Tưk-cot” có thể
chưa phải là tập truyện ngắn xuất sắc nhất của Hồ Kiên Giang nhưng là một
trong số những tập truyện ngắn gây ấn tượng với tôi về đặc trưng văn hóa Nam bộ. Từ không gian, ngôn ngữ truyện đến văn hóa trong giao tiếp, ứng xử, sinh hoạt của con người Nam bộ
đều được đề cập một cách nhẹ nhàng mà sâu sắc. Các câu chuyện khép lại nhưng
lòng người đọc vẫn mở ra những trăn trở, lo âu về tình đời, kiếp người ở nơi chốn
miền Tây xa xôi. Những cảm xúc ấy có khi không thể chạm được nhưng luôn hiện hữu
như từng cọng vàng của bông lúa miền Tây, từng cây cầu bắc qua những dòng sông
mênh mông, từng câu hò ru con ầu ơ vẳng lên trong những đêm khuya thanh vắng… Với
tình yêu đối với đất và người Nam bộ, Hồ Kiên Giang đã “chuyển tải” thành công “chất
Nam bộ” qua ngôn ngữ trong sáng tác của mình. Chỉ bấy nhiêu thôi ta cũng có
thể khẳng định: Hồ Kiên Giang xứng đáng là một trong những nhà văn của người
dân Nam bộ trong thời kỳ mới cũng như đóng góp một tiếng nói, một ngôn ngữ
truyền thống trên văn đàn văn học miền Nam./.
N.V.N.T