Nhà văn Hoàng Minh Tươờng
Mùa hè năm 1998, tôi lúc bấy giờ làm Trưởng Văn phòng đại
diện báo Tuần Du lịch của Tổng cục Du lịch Việt Nam tại thành phố
Hồ Chí Minh, cùng sếp là nhà văn Hoàng Minh Tường Phó Tổng biên tập
phụ trách báo, hẹn gặp nhau tại Nha Trang trong một chương trình công
tác. Buổi chiều xong công việc, chúng tôi rủ nhau đi tắm biển. Từ
khách sạn Quê hương nằm trên đường Trần Phú, chúng tôi băng qua
đường rồi lững thững thả bộ về phía trung tâm. Hoàng Minh Tường đi
trước tôi. Dáng anh thấp đậm, vai lắc lắc. Tới quảng trường 2/4, cả
hai rẽ ngang xuống bãi cát. Biển khá đông người làm tôi ngán ngại.
Hoàng Minh Tường động viên tôi rằng, biển Nha Trang mùa hè lúc nào
chẳng thế, rằng có thêm chúng ta nữa thì cũng như “muối bỏ biển”,
không vì thế mà người đông hơn… Và đúng thế, khi chúng tôi trầm mình
trong làn nước trong xanh của biển rồi thì không thấy ai kêu chúng tôi
đã làm biển chật. Cách chúng tôi quãng 5m có ba cô đang tắm. Nghe đối
thoại, chúng tôi đoán ba cô làm “nghề ăn sương”. Hoàng Minh Tường bảo
tôi:
“Ta tới chỗ ba cô tắm cho vui”
Tôi tán thành ngay. Sau vài sải tay, tôi cùng Tường tới
nơi. Thả nụ cười cầu duyên, cả hai bắt đầu tuôn ra những lời có
cánh. Các cô vui vẻ tiếp chuyện. Những câu hỏi, những câu trả lời,
ỡm ờ mà cởi mở. Các cô cho biết mình ở miền Tây Nam bộ ra Nha Trang
chơi. Nam bộ không có biển, hay đúng hơn có biển nhưng các cô chưa bao
giờ tới vv và vv… Cứ thế được một lúc không hiểu sao cả ba cô quây
lấy tôi, để Hoàng Minh Tường trơ khấc một mình. Nhìn cảnh ấy tôi ái
ngại, thấy như mình có cái gì đó không phải với sếp, nhưng biết làm
sao được, lựa chọn của các cô kia mà. Thật là một sự lạ lùng. Dù
có dáng đi lắc lư, dù gương mặt sẹo trứng cá với một nốt ruồi to nằm
giữa trán, trong con mắt bạn bè chưa bao giờ Hoàng Minh Tường bị liệt
vào loại xấu giai… Thế mà giữa thanh thiên bạch nhật, anh lại bị
“các cô gái ăn sương” chê một cách thẳng thừng.
Thấy mình bị gạt ra rìa, Hoàng Minh
Tường có vẻ buồn. An ủi anh, tôi nói với ba cô vài lời, sau đó cài
số lùi rời đi bơi vòng vòng trên biển. Khi mặt trời đỏ ối lặn xuống
sau Hòn Tre, chúng tôi trở về. Hoàng Minh Tường khen tôi có duyên. Xét
sự việc vừa diễn ra, anh nói không sai. Tuy nhiên trong chuyện lấy vợ,
một chuyện tối quan trọng cần đến duyên hơn bất cứ việc gì của một
đấng nam nhi, duyên có vẻ ngược lại. Tôi mãi tới năm bốn hai tuổi mới
cưới vợ lần đầu, anh bằng ấy năm đã hai lần cưới vợ, và nếu không khéo tu tâm
dưỡng tính còn dám “song hỷ” thêm vài lần nữa (!) Con thì một đàn, có nếp có
tẻ. Không biết bác này có võ gì
đây? Tò mò, một lần ra Hà Nội tôi đến thăm nhà anh ở gần đường Trần
Duy Hưng, quận Cầu Giấy chơi. Ngạc nhiên thấy trong nhà: phòng ngủ,
phòng khách, phòng bếp, phòng ăn… chỗ nào cũng treo đầy ảnh và những
bức tranh sơn dầu anh vẽ vợ, chuẩn bị cho Triền lãm tranh “nhà văn
vẽ” tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, giữa năm 2005. Nhà thơ Hi lạp Simonides từng nói: “Thơ là họa cảm thấy, họa là
thơ trông thấy”, nên nếu nhà thơ lớn người Pháp Louis Aragon có vô số những “họa phẩm cảm
thấy” ca ngợi Elsa Triolet , người vợ yêu của mình, như: “Đôi mắt
Enxa”, “Bài ca gửi Enxa”, “Tình yêu Enxa”, “Enxa ngồi trước gương”, “Người yêu
cuồng nhiệt của Enxa”… Thì anh có nhiều không kém những “thi phẩm trông
thấy”(1) ca ngợi TB, người vợ yêu của anh, như: “B chải
tóc”, “B đánh răng”, “B nấu bếp”, “B nằm ngủ”, “B cho con bú” vv… Mãn
nhãn trước một nhà “thơ trông thấy” mà anh đã phải lao tâm khổ tứ
lắm mới dàn dựng được, tôi thả một bình luận ngọt ngào:
“Bác là một người hạnh phúc”
“Vì sao?” – Hoàng Minh Tường cảnh giác.
“Vì có một cô vợ đẹp” - Chủ nhà nghe vậy, cười thỏa
mãn.
Chờ anh cười xong, tôi thả comment thứ hai, nghe đã có vị
đắng:
“Nhưng rồi bác sẽ phải cắp cặp đi khỏi nhà này. Vì sao
ư? Vì bác không biết giấu cảm xúc, có sao cứ bày ra vậy. Đối với
vợ, đấy là một sai lầm…. Nhà em bác đến rồi, không hề có ảnh vợ, dù chỉ là một
cái cỡ 3x4. Mà trong khoản đội vợ lên đầu, em còn trên tài bác nữa
ấy chứ…”
Chúng tôi còn trao qua đổi lại với nhau nhiều nữa về đề
tài này, không ai khai hóa được ai, Hoàng Minh Tường bỏ ngoài tai
những điều tôi nói. Rồi anh sẽ phải ân hận, bởi chuyện vợ chồng anh
về sau diễn ra đúng như “sấm” tôi truyền. Anh chị kéo nhau ra tòa. Chi
tiết những thỏa thuận chia bôi giữa hai người khi ly hôn thế nào tôi
không biết, chỉ biết cuối cùng anh là người phải cắp cặp rời khỏi
ngôi nhà một trệt hai lầu mà hai vợ chồng đã một thời “Ta
nắm tay nhau xây lại đời ta” (thơ Tố Hữu), dựng nên trên nền đất 60m2
mà anh đổi mảnh đất tiêu chuẩn anh được báo Văn Nghệ phân cho.
Trở thành người vô gia cư, còn chưa
biết tính sao thì may thay “duyên” anh vẫn chưa hết. Nhưng anh phải sống trong một căn hộ hai phòng
rộng 60m2, chịu cảnh ông Bắc, bà Nam. Những ngày cô đơn là
những ngày anh hì hục… viết! Anh cũng như cụ Tô Hoài, viết bất cứ ở đâu,
bất cứ lúc nào. Nhưng anh khác cụ Tô Hoài, khi viết (tiểu thuyết)
thì vẽ sơ đồ nhân vật, cách phát triển từng tuyến của câu chuyện... Nói chung
là rất kỹ, sau đó cứ đề cương mà mần. Nhờ
thế, hàng loạt tác phẩm của anh, như: Đầu sông (1981); Những
mảnh đời khác nhau (1986); Những người ở khác cung đường (1988); Cưới lại
(1992); Đa thê (1995), Đen và béo (1997); Đồng sau bão (2000); Nàng Êva mù
(2005); Ngư phủ (2005), Gia phả của đất (2000), Thời của Thánh Thần(2008), Thảm
kịch vĩ nhân( 2019)… ra đời. Tất cả gần 40 đầu sách. Cuốn mỏng hơn
một trăm trang, cuốn dày bằng cả một cục gạch táp lô.
***
Sách Hoàng Minh Tường tôi đọc rải
rác, nhưng rất ấn tượng. Một trong số đó là tập truyện ngắn Gã
viết thuê, và tôi đã viết về nó trong một bài đọc sách, như sau:
VÀNG CỦA TÂM HỒN, VÀNG CỦA VĂN CHƯƠNG
Một gã đào vàng bị sập hầm, sau khi thoát hiểm,
được một cô giáo cưu mang, đã đánh cắp chiếc nhẫn đồng (mà y tưởng
là chiếc nhẫn vàng) cô mang trên tay. Vĩnh viễn y đánh mất chất vàng ròng
của tâm hồn cô gái, mà cô sẵn sàng cho y (Vàng). Hiệp phụ của một trận
bóng đá, kết quả lối cầm cân nẩy mực thiếu công minh của trọng tài,
đã giết chết cái hiệp chính cuộc đời Việt, người say mê bóng đá,
sống trung thực, ưa chuộng lẽ công bằng (Hiệp phụ). Thói háo
danh của một gã trọc phú hợm của, một đạo diễn phim giả danh, đã
thổi bùng ngọn lửa tình yêu giữa Cao, một đạo diễn phim có tài và
Tuyết, một Á khôi – người tình của gã đạo diễn giả nọ khiến khán
giả ngớ ra mà không hiểu rằng, mối tình đó đích thực do y đạo diễn (Nghệ
thuật thị trường)…
Nhiều truyện ngắn của Hoàng Minh Tường trong Gã viết thuê giống như
những mảng sáng tối đặt cạnh nhau trong một bức tranh, cái này làm
nổi rõ, nâng cao cái kia. Thủ pháp này đã được nhiều bậc thầy
truyện ngắn áp dụng. Đến lượt mình, Hoàng Minh Tường vận dụng thủ
pháp trên mà không hề bị trùng lắp. Bởi nghĩ cho cùng, mỗi nhà văn
chỉ viết bằng vốn sống của riêng mình. Không tìm cách lý giải sự
việc, trong các truyện ngắn của mình Hoàng Minh Tường hầu như chỉ
làm cái việc đào sâu, khơi dậy những tầng bậc ý nghĩa của cuộc
sống thường ngày. Con mắt nhạy cảm của một nhà văn trong anh phát
hiện cho người đọc nhiều vẻ đẹp bình dị mà người đọc dễ dàng bỏ
qua. Những mặt nạ mang thói đạo đức giả cần được vạch trần, xé bỏ.
Ở một số truyện, nhân vật được anh đẩy tới tận cùng sự phát triển
tâm lý, ngược hẳn với mơ ước ngàn đời của những câu chuyện dân gian
ở hiền gặp lành, ân đền oán trả (Duyên, Nợ đồng lần).
Từng có quá trình 10 năm làm biên tập văn xuôi của
Tuần báo Văn Nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam), dấu ấn của nghề biên tập
để lại khá rõ trên những trang viết của nhà văn Hoàng Minh Tường. Văn
anh mạch lạc, trong sáng. Từng nhận giải thưởng văn xuôi của Hội Nhà
văn Việt Nam trao cho tiểu thuyết Thủy Hỏa Đạo Tặc, ở một bộ phận người đọc, lâu
nay Hoàng Minh Tường vẫn được nhìn nhận trên phương diện là một nhà
văn viết tiểu thuyết đáng trân trọng. Với Gã viết thuê, anh lại
ghi thêm một điểm nữa trong bảng thành tích của mình đối với công
chúng yêu văn học nước nhà.
(Báo Thanh
niên cuối tuần, số 4 (160), ra ngày 31/10/1999)
Nhưng trong đời văn của Hoàng Minh
Tường, Gã viết thuê không phải là cuốn quan trọng. Quan trọng
trước tiên với anh là tiểu thuyết Đầu sông viết năm 1973, khi
tham dự trại viết của Hội văn nghệ Khu tự trị Việt Bắc. Đầu sông
đơn giản là câu chuyện về một anh giáo viên miền xuôi lên miền núi dạy học, ít
nhiều mang dáng dấp tự truyện, vì tác giả lấy đời sống của chính mình ra mô
tả nhân vật. Đầu sông rõ ràng không nổi tiếng bằng nhiều “anh em” khác
của nó sau này, nhưng chứa đầy nhiệt huyết và hoài bão tuổi trẻ của
Hoàng Minh Tường. Và nó đã biến ước mơ trở thành nhà văn của anh thành sự
thật.
Quan trọng thứ hai trong
gia tài văn học của anh là bộ tiểu thuyết Gia phả của đất (Tập 1:
Thủy hỏa đạo tặc, Tập 2: Đồng sau bão), phản ánh hiện thực nông thôn theo
mô hình hợp tác xã làm ăn theo cơ chế cũ, cơ chế quan liêu bao cấp mang tính
cộng đồng, tập thể thực hiện dưới sự áp đặt của một bộ phận lãnh đạo đặt lợi
ích cá nhân lên trên lợi ích tập thể. Tiểu thuyết mang âm hưởng chính luận và
tính phản biện quyết liệt, tính dự báo xã hội sâu sắc. Dưới cảm hứng nhận
thức, và đánh giá lại lịch sử, tác giả đã cho chúng ta thấy được cái nhìn toàn
diện về bức tranh nông thôn của một làng quê miền Bắc vật vã chuyển mình sau 30
năm. Đó là hình ảnh trọn vẹn, đa chiều, phức tạp của một đất nước mang văn hóa
truyền thống nông nghiệp lúa nước. Tiểu thuyết đã mang lại cho Hoàng Minh
Tường Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1997). Tặng thưởng văn học Thời kỳ
đổi mới 1985-2010 cho 10 tiểu thuyết hay nhất về Nông thôn - Nông nghiệp do
HNVVN và Bộ NN&PTNT trao tặng (2011)… Tuy vậy, cho đến lúc đó
Hoàng Minh Tường vẫn chỉ được nhìn nhận như một nhà văn “hạng hai”
trong văn giới. Điều này đặt một dấu hỏi lớn cho cách làm Giải
thưởng Văn học ở nước ta lâu nay.
***
Chỉ đến năm 2008, khi tiểu thuyết “Thời
của thánh thần” xuất bản, anh mới
được “thăng hạng”, trở thành một trong số không nhiều nhà văn viết
tiểu thuyết số một của văn học Việt Nam đương đại. Tiểu thuyết viết
về những số phận khác nhau của một gia đình có truyền thống khoa bảng ở làng
quê châu thổ sông Hồng. Bốn anh em trai Khôi, Vĩ, Vọng, Quặc ba người con đẻ,
một con nuôi, sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, mỗi người đi mỗi ngả. Người trở
thành cán bộ lãnh đạo; người là nhà thơ nhưng bị quy là theo nhóm Nhân văn, xét
lại; người di cư vào Nam rồi di tản sang Mĩ; người ở nhà cày ruộng. Cùng với họ
là những người đàn bà, những người vợ, những mối tình sét đánh, éo le, ngang
trái… Ba thế hệ của một gia đình, từ ông Lí Phúc, đến bốn người con trai của
ông, rồi đến những đứa cháu của ông đã vật vã trên nửa thế kỉ của đất nước
trong cơn gió bụi và cuộc bể dâu...
Đánh giá về Thời của thánh thần,
nhà văn Nguyễn Khắc Trường viết: “Thiên truyện đúng ra phải đặt tên
là “Những người khốn khổ”, hoặc “Con đường đau khổ”… Rất
tiếc các văn hào Vichto Huygô và Alexây Tôlxtôi đã viết từ những thế
kỷ trước. Nhưng không sao. Những người khốn khổ và con đường đau khổ
thì thời nào cũng thế thôi” .
Nhà phê bình văn học Vũ Nho viết: “Cải
cách ruộng đất; đấu tranh chống Nhân văn Giai phẩm, chống xét lại;
Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; Hòa hợp dân tộc… Những
vấn đề cốt lõi ấy được xem xét và đánh giá qua những số phận mấy
đời chìm nổi của một gia đình. Thời gian đủ độ lùi cần thiết. Nhưng
những hiểu biết của một cây bút phóng sự, tiểu thuyết có hạng, và
suy ngẫm một đời viết, mới là yếu tố quyết định làm nên thành công
của tác phẩm này…”.
Nhà phê bình Phương Ngọc thì đánh
giá: “Thời của thánh thần, tiếng nổ của văn xuôi Việt Nam 2008?”
Sách in xong, nộp lưu chiểu quý 3/2008. Ngày 22-8-2008 Cục
Xuất bản có công văn số 1837/XB-QLXB: “Tạm dừng phát hành cuốn Thời của
thánh thần” do ông phó Cục trưởng Lý Bá Toàn ký. Vụ việc không chỉ đơn
thuần là vi phạm hành chính như Quyết định xử phạt hành chính số 695/QĐ-XPHC
ngày 29-8-2008 của Bộ TT & TT, do Chánh thanh tra Nguyễn Thanh Hải ký.
Phải đợi tới cuộc họp thượng đỉnh của nhóm chuyên gia Hội Nhà văn Việt Nam do
Chủ tịch - nhà thơ Hữu Thỉnh chủ trì. Bằng sự anh minh sáng suốt, sự dũng cảm
phi thường của chín nhà văn (Hữu Thỉnh, Vũ Tú Nam, Nguyễn Trí Huân, Trần Đăng
Khoa, Hồ Anh Thái, Trần Hữu Tòng, Lê Thành Nghị, Nguyễn Khắc Trường, Trung
Trung Đỉnh), Thời của Thánh Thần mới được thoát án...
Giống như việc chữa lửa bằng xăng, sự cấm đoán của Nhà
chức trách lập tức thổi bùng sự quan tâm của bạn đọc. Bạn đọc đã
đón nhận nó như đó chính là sản phẩm của họ, là tiếng đồng vọng của lương tâm
và trách nhiệm của họ. Sách in 1000 cuốn bán hết vèo ngay trong tháng đầu phát
hành. Có người như nhà thơ Hoàng Cát nghèo thế, sách đắt thế mà mua tới 12 cuốn
để tặng bạn bè. Rồi nhiều bạn bè nhà văn ở Hà Nội mua hàng chục cuốn gửi làm
quà cho bạn bè, người thân… Dẫn đến sách lậu được dịp tung ra và cánh làm sách
lậu hốt lời. Ước tính, có tới 10 vạn bản Thời của thánh thần
bị in lậu. Đa số người đọc đọc sách in lậu. Kỳ lạ hơn, sách vừa phát hành tại
Hà Nội trung tuần tháng 8 năm 2008, mà chỉ một tháng sau, ngày 23 tháng 9 năm
2008, đã được post lên mạng của trang web Vietnamthưquan.
Ở trong nước là vậy, ở nước ngoài Thời
của thánh thần cũng nhanh chóng được đón nhận, được dịch ra nhiều
thứ tiếng: Bản
dịch tiếng Pháp: Le temps des Genies Invincibles, xuất bản tại Paris, 11- 2014
- Nhà xuất bản La Fremillerie. Bản dịch
tiếng Hàn Quốc, với tựa đề" Thi sĩ sang sông", do Nhà xuất bản B
books phát hành tại Seul, 10/10/2015. Bản
dịch tiếng Nhật "Thời của Thánh Thần" do Nhà xuất bản TUFS Đại học
Ngoại ngữ Tokyo xuất bản 31/3/2016, phát hành tại Tokyo. Bản dịch tiếng Hoa "Thời của Thánh Thần" do Tập
đoàn xuất bản Trung Quốc ( Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu, Tây An...) xuất
bản, 12/2016.( nhưng liền sau đó, 3000 bản in bị thu hồi (!)
Thiệt thòi là tác giả, ngoài món nhuận
bút còm của số lượng 1.000 bản in ở Nhà xuất bản Hội Nhà văn, ông
chẳng được nhận thêm đồng nhuận bút nào. Nhắc tới điều này, ông tỏ
ra đau khi tâm sự: “Tôi
không thích viết những cuốn sách kể chuyện bình thường, đơn điệu, vì cuộc sống
vốn rất phức tạp. Tôi luôn cố gắng để văn chương mình thực sự có ích , nhận
được sự đồng cảm của đông đảo bạn đọc. Thời của thánh thần có thể
coi là một cố gắng mới của tôi. Tôi đã huy động tất cả vốn sống, kiến thức hiểu
biết của mình và vật vã trong bốn năm trời để phản ảnh hiện thực đất nước một
chặng đường dài sau 1954 đến nay, không ngại khai thác những vùng được coi là
nhạy cảm. Nên đối với tôi đây là đứa con tâm huyết.”
Đúng như tâm sự của tác giả. Để có được những trang viết
về biển hay như trong Thời của thánh thần, tôi biết anh đã cày
ải khắp các vùng biển đất nước. Trải hàng trăm hải lý Trường Sa, ra
Côn Đảo, xuôi Phú Quốc, thậm chí chuyển cơ quan công tác từ báo Tuần
Du lịch sang Tạp chí Thủy sản của Bộ Thủy sản để có điều kiện bám
các làng chài. Nhờ thế, phát hiện ngư dân chính là những nông dân
làm nghề biển và đó là chìa khóa giúp anh đi vào tâm hồn các Ngư
phủ.
Đã hơn một lần cùng anh xuôi Nam ngược Bắc, tôi nhớ mãi
lần chúng tôi hành hương về Đất Mũi giữa năm 2003. Lượt đi, mọi
chuyện diễn ra tốt đẹp. Chúng tôi mê mẩn trước những dòng sông kênh
Nam bộ phẳng bằng như đại lộ; mê mẩn trước những ngôi nhà dập dềnh
bám mặt tiền sông, trước mũi đất, mũi tàu của Đất nước. Lượt về,
khi đến thị trấn Năm Căn tôi nhận được điện nhà báo tin mẹ mất. Ngay
đêm ấy anh đã cùng tôi tức tốc nhảy xe đò về thành phố Hồ Chí Minh,
để rạng sáng hôm sau bố con tôi kịp bay về quê chịu tang bà.
***
18 năm từ đó trôi qua. Cả tôi và Hoàng Minh Tường đều đã
bên này bên kia dốc 70 của cuộc đời. Anh ở Hà Nội, tôi ở Thành phố
Hồ Chí Minh, việc gặp nhau đã ít đi, thăm nhau thường chỉ gọi điện
thoại. Ngày 5 tháng 7 năm 2021 này giỗ lần thứ 18 mẹ tôi. Thắp hương
cho mẹ xong, nhớ lại chuyến cùng anh đi Đất Mũi năm nào, tôi đến đứng
trước giá sách lục tìm những Đồng chiêm, Gia phả của đất, Đen
& Béo, Gã viết thuê, Thời của thánh thần, Từ Ba Tư đến Bắc Mỹ…
sách anh tặng tôi. Ngắm rất lâu lời đề tặng tác giả viết ở trang
đầu mỗi cuốn bằng những nét chữ bay bướm và một chữ ký rất
đẹp, rồi ôm đàn ngồi hát: “Ngày xưa có anh Trương Chi…”
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 05/7/2021
NGÔ XUÂN HỘI
Một tác phẩm của nhà văn Hoàng Minh Tường
*Nhà văn Hoàng
Minh Tường, họ tên khai sinh: Hoàng Minh Tường. Sinh ngày 21-1-1948. Quê
quán Động Phí, Phương Tú, Ứng Hòa, Hà Tây (nay là Hà Nội). Dân tộc: Kinh.
Các bút danh
khác: Tư Mã Quang, Hoàng Dạ Vũ, Minh Quang…
QUÁ TRÌNH HỌC TẬP
VÀ CÔNG TÁC: Tốt nghiệp khoa Địa lý Đại học Sư phạm Hà Nội năm
1970. Từ 1970 – 1976, công tác tại Sở giáo dục khu tự trị Việt Bắc.
Từ 1977 – 1987, phóng viên báo Người giáo viên nhân dân. Từ 1988 – 1998
công tác tại báo Văn nghệ, làm Biên tập viên rồi Trưởng ban văn xuôi.
Từ 1998 – 2004, Phó Tổng biên tập phụ trách báo Tuần Du lịch, rồi
Phó Tổng biên tập tạp chí Thủy sản. Từ 2005, Phó Ban sáng tác Hội
Nhà văn Việt Nam. Hiện nay nghỉ hưu, sống ở Hà Nội.
TÁC PHẨM:
Đồng chiêm (Nxb Thanh Niên, 1979); Đầu sông (Nxb Lao Động, 1981); Những mảnh
đời khác nhau, tập truyện ngắn in chung với Phạm Ngọc Chiểu (1986, Nxb Tác
phẩm mới); Những người ở khác cung đường (1988, Nxb Giao thông vận tải); Cưới
lại (1992, Nxb Hà Nội); Đa thê (1995, Nxb Lao động), Đen và béo (1997, Nxb Kim
Đồng); Đồng sau bão, (2000, Nxb Văn học); Nàng Êva mù, (2005, Nxb Lao động);
Thời của thánh thần (2008, Nxb Hội nhà văn); Thôn quê liệt truyện (2006); Ngôi
nhà ma (2013); Gia phả của đất (2013, Nxb Phụ Nữ); Nguyên khí (2014, Nxb Dân
khí, NgườiViêtshop); Thi sĩ sang sông ( Thời của Thánh Thần - Bản dịch tiếng
Hàn Quốc (2015, Nxb B books - Seul); Những ngả đường (1986, Nxb Công an
nhân dân); Gặp lại dòng sông (1986, Nxb Lao động); Người đẹp trong khách sạn
(1990); Giá như được yêu một người (1994); Thủy hỏa đạo tặc (1996, Nxb Văn
học); Gã viết thuê (1999, Nxb Hội nhà văn); Những chuyện tình xưa cũ (2000, Hội
nhà văn); Nghìn lẻ một nàng dâu (2002); Ngư phủ (2005, Nxb Công an nhân dân); Chuyện
một người thầy (2007); Bình minh đến sớm- Nxb Kim Đồng (1986, 1990), Nxb Trẻ
(2000); Bạn văn ngoài vùng phủ sóng (2011, Nxb Hội nhà văn); Le temps des
Genies Invincibles (Nxb La Fremillerie, Paris, 2014 - bản dịch tiếng Pháp Thời
của Thánh Thần) ; Thời của Thánh thần (Bản dịch tiếng Nhật - 3/2016 Nxb Đại
học Ngoại ngữ Tokyo - Tokyo); Thời của Thánh Thần, bản dịch tiếng Trung Quốc,
năm 2016 (bị thu hồi không được phát hành.)
Kịch bản phim truyện (
đã dựng phim): Hà Nội mùa chim làm tổ (1981); Giá như yêu được một
người (1996), Tình biển (2000), và một số phim truyền hình nhiều tập
(Tình đất; Gia phả của đất…)
GIẢI
THƯỞNG VĂN HỌC: Giải A Văn học Công nhân với tác
phẩm "Những người ở khác cung đường" (1985 – 1990). Giải
thưởng Hội Nhà văn Việt Nam với tiểu thuyết "Thủy hỏa đạo
tặc" (1997). Năm 2011: Tặng thưởng văn học Thời kỳ đổi mới 1985-2010
cho 10 tiểu thuyết hay nhất về Nông thôn - Nông nghiệp do HNVVN và Bộ
NN&PTNT trao tặng cho bộ tiểu thuyết Gia phả của đất (T1: Thủy hỏa đạo
tặc, T2: Đồng sau bão).