Mải mê nơi xứ người xa lắc, lâu lắm rồi họa sĩ mới có dịp trở lại quê nhà. Anh thèm cái không khí chợ xuân, thèm nghe tiếng chào mời mua bán, thèm cái dư ba của Tết Việt biết bao nhiêu. Thèm chút duyên may của phiên chợ Viềng miền Sơn Nam Hạ.
Chợ xuân năm nay không đông vui nhộn nhịp như những mùa xuân năm trước. Cây thế bày la liệt, hoa đỗ quyên đỏ thắm, trà phấn hồng chíu chít nụ đợi nắng lên là bung lụa. Những cánh mộc trắng ngà khẽ rùng mình, giá buốt mưa gió càng làm hương mộc ngát hơn. Các dãy hàng bày la liệt, rổ rá cày cuốc, đồ nông sản nhiều tới cơ man nhưng chợ vẫn thưa thớt khách du xuân. Vài ông đồ ngồi bán chữ thở dài nhìn giấy đỏ mưa hắt vào hoen phẩm. Chữ Phúc, chữ Lộc, chữ Tâm bị mưa bụi làm vết mực loang dài như nước mắt của chúng sinh. Ông đồ già thở dài nhìn sang hàng bên có cô đồ trẻ mắt đượm buồn hiu hắt bó gối nhìn mưa rơi. Ông bỗng thở dài rồi lẩm bẩm: Giời đất này chả biết sao nữa?
Khách vẫn lặng im, tần ngần ánh mắt, khách dõi sang hàng đồ cổ bên cạnh, bắt gặp ánh mắt thiếu phụ thật đẹp mà đượm buồn. Nàng ngồi bán hàng mà xa vắng, lơ đãng như chìm vào thế giới huyền bí. Những đồ gốm sứ của nàng cũ kĩ không còn nguyên vẹn, chúng sứt mẻ lệch đôi, lũ đồ đồng hoen rỉ mốc xanh, vài cái cốc bằng đồng như từ các vương triều Trung Hoa cũ. Mươi đồng bạc trắng hoa xòe nằm tênh hênh trên manh chiếu cũ. Không một lời chào hàng, thiếu phụ ngước đôi mắt nhung thăm thẳm nhìn khách. Nàng không đẹp rực rỡ kiêu sa như đóa hải đường e ấp trong gió sớm mà nét đẹp nuột nà đằm thắm của cặp môi đỏ tươi, đôi bàn tay trắng như ngó cần đan vào nhau. Nàng ngồi bên những đồ cổ xưa rất giống như vương phi thất thế. Ánh mắt như từ tiền kiếp hiện về ma mị dẫn dụ. Nhìn lũ ấm đồng thiếp mệt trong gió lạnh, lũ ấm ngả màu vàng sỉn không bắt mắt, lão hàng đồ cổ ngồi bên quan sát thiếu phụ rồi cười khẩy. Khách toan bước đi chợt mắt ông sáng lên trước một vật lạ. Họa sĩ ngồi xuống bên lũ ấm cổ, nhẹ tay nâng một chiếc ấm hình con rùa lên. Màu đồng cổ nâu sạm, nắp ấm là con rùa con, thân ấm là con rùa mẹ, được gò đúc tinh xảo, có những cổ tự rất đẹp. Không cưỡng được cảm xúc, họa sĩ cất tiếng hỏi thiếu phụ bán hàng: Bao nhiêu tiền chiếc ấm này hả cô?
Thiếu phụ nhìn người khách phong trần nhưng vẫn không giấu được vẻ lịch lãm của đất thành kinh. Nàng liếc chiếc ấm cổ, một thoáng ngạc nhiên xuất hiện trong đầu. Chiếc ấm này đã nằm trong sạp hàng đồ cổ bao năm nay từ khi nàng còn bé tí, nó lăn lóc theo cha nàng khắp các lễ hội ngày xuân nhưng chẳng thấy ai hỏi gì cả? Rồi cha nàng về cõi bên kia, nàng theo nghiệp cha quen dần với gánh hàng đồ cổ nhưng cái ấm vẫn nằm tẻ nhạt trên mẹt hàng của nàng. Sao bây giờ lại có người đàn ông này để ý tới chiếc ấm và cầm trên tay nâng niu thế này? Một thoáng bối rối, đôi mắt nhung huyền thăm thẳm ngước lên, giọng nói nhẹ như gió thoảng: Tùy ông cho bao nhiêu cũng được. Em bán cho ông chiếc ấm lấy may.
Mắt nhung gợn sóng thu ba. Nhìn vào đấy, khách như gặp cả bể oan cừu. Thật kì lạ, chưa có người bán hàng nào lại thờ ơ với đồng tiền như vậy? Khách bối rối rồi mỉm cười lấy một nắm tiền mới trong ví đặt vào tay thiếu phụ. Giọng trầm ấm cất lên: Bao nhiêu tiền này đủ chưa cô?
Thiếu phụ mỉm cười rồi nhẹ nhàng gật đầu: Thưa ông thừa rồi ạ! Cảm ơn ông đã có duyên với chiếc quần ấm mẫu tử này.
Đại hồng chung chùa Đại Bi chợt ngân nga. Tiếng chuông đúng ngọ cất lên, như giục bước chân người mua ấm. Khách nhanh chân mua thẻ hương, bước vào tam quan. Khói trầm nghi ngút, thấp thoáng vài bóng người đang sì sụp khấn vái trước Phật đài. Khách thành kính thắp ba nén nhang vào bát hương công đồng rồi đặt chiếc ấm xuống bệ thờ khấn vái: Con nam mô a di đà Phật. Con lạy chín phương trời, mười phương chư Phật. Con kính lạy hoàng thiên hậu thổ chư vị tôn thần. Con là họa sỹ ở kinh thành, nay về lễ Phật cầu an, du xuân Viềng Tỉnh, cũng do lòng đam mê cổ vật yêu hồn cốt văn hóa xưa, yêu trà mà được gặp chiếc ấm lạ giữa hội xuân. Có lẽ cũng là một nhân duyên. Con cúi xin Phật Trời phù hộ cho con đem ấm về được bình an may mắn.
Lời khấn vừa dứt. Nén hương thắp vòng tít lại. Chiếc ấm đồng nâu sỉn chợt hồng rực lên như phép màu đã linh hiển. Họa sĩ cúi đầu khấn vái cảm tạ trước tam bảo, mở vuông lụa đỏ trong túi xách bọc chiếc ấm thanh thản bước ra khỏi tam quan.
Mưa mỗi lúc nặng hạt. Khách vội vàng rảo bước lên xe trở về trung du. Đồi núi chập chùng, mưa như rây hạt làm ẩm áo khách đường xa. Những búp trà ủ mình trong giá tuyết giờ đang cụng cựa xòe búp biếc trong mưa xuân. Một cảm giác dịu ngọt ùa về thoảng hương trà xuân khiến lòng khách thao thiết nhớ thương. Cái cảm giác trở về sau bao năm xa cách khiến lòng khách rưng rưng. Quê nhà tôi ơi... Hương trà đất Thái bâng khuâng ùa vào lòng khách như hội ngộ đầy cảm động.
Đêm ấy, trong ngôi nhà cổ, bên người ông tóc như sương khói, họa sĩ mở vuông lụa đào gói chiếc ấm mua ở chợ xuân. Nén trầm được thắp lên ngát dịu. Họa sĩ nhẹ tay chế nước sôi lên thành ấm và lòng ấm để thanh tẩy bụi thời gian. Thật kì lạ, một mùi hương trà ngào ngạt từ trong ấm tỏa ra. Đưa tay với lọ trà Long Tỉnh - một thứ trà quí tận Chiết Giang - người ta thường dùng nước suối bản địa mà pha. Nhưng họa sĩ là một kẻ sành trà thì lại dùng những hạt sương trên lá sen, kì công hàng tuần liền khi mùa sen nở nơi đồng nội mà hứng lấy. Trà Long Tỉnh không ưa nước sôi già mà chỉ sôi lăn tăn là có thể pha mới nhuận hương. Thứ trà một lá, duy nhất trên cây chỉ một búp nhỏ này, khi nhấp trên môi tinh thần cực nhẹ nhõm như thức tỉnh lục giác, sảng khoái đến vô cùng. Họa sĩ yêu trà Long Tỉnh vì nó có thể dẫn người ta vào cõi mơ. Sau biên thức của sảng khoái thì có thể đưa con người vào giấc mơ ngạt ngào đồi núi và bát ngát xanh như một giấc viễn du thần tiên.
Nhưng không hiểu sao họa sĩ lại nhớ tới đôi mắt nhung thăm thẳm của thiếu phụ bán ấm, nhớ phiên chợ xuân miền Sơn Nam Hạ. Hồn Việt lại ùa về dịu ngọt trong lòng họa sĩ. Đặt lọ trà Long Tỉnh sang một bên, họa sĩ đưa tay nâng bình gốm Chu Đậu, khẽ nhẹ mở nắp. Hương trà Thái Nguyên thiếp ngủ trong bình lâu ngày bỗng tỏa hương. Những cánh chè săn óng như móc câu bạch tuyết thả vào ấm. Nước trong hỏa lò than cũng reo vui, chiếc ấm đồng sôi lên sùng sục, hương trà thanh khiết tới dị thường. Họa sĩ nhấp chén hương thơm trên môi, chợt trong làn khói thơm mờ ảo của hương trà như thấp thoáng bóng người con gái đẹp. Trà Thái đượm hương ngọt trong lòng kẻ xa quê lâu ngày trở lại. Hương xuân ăm ắp ùa về khiến họa sĩ lâng lâng một cảm giác xao xuyến đến lạ kỳ. Anh liền cầm tập giấy phác thảo bức tranh người thiếu nữ giữa đồi chè mùa xuân...
L.H.N
Nguồn: Văn nghệ Đồng Nai số 83-84 (Tháng 01 & 02 năm 2025)