Bùi
Công Thuấn
Nguồn: Nhà văn Đồng
Nai – NXB Đồng Nai 2018
(Đọc tập thơ “Tiếng ru đêm” của
Lê Thanh Xuân - Nxb Văn học 2001)
Tiếng ru đêm đã có những yếu
tố rất khác với thơ truyền thống, và hoà nhập được vào dòng chảy thơ đương đại.
Xin đọc bài thơ Tiếng ru đêm
Tiếng
ru của người mẹ chắt ra từ lồng ngực
Làm
ấm lên một chút đêm hoang
Con
không khóc lời ru vẫn thống thiết
Hình
như người mẹ đang ru chính chình?
Trong
vòng tay giấc ngủ ngọt như mật ong
Nhưng
đứa trẻ lại mơ về dòng sưã
Còn
người mẹ mơ về giấc ngủ
Xuyên
qua vì sao tới tận mặt trời…
Nhưng
mát đêm chỉ dành cho một người
Còn
một người phải thức
Người
mẹ thức, sờ tay lên lồng ngực
Mặt
lo âu, nhìn xuống con mình
Và
tiếng ru cứ thế đi tới bình minh…
Thơ truyền thống
(1945-1975) là thơ Hiện thực xã hội chủ nghĩa. Nhân vật chính là công, nông,
binh, nội dung chính là đời sống kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và xây dựng Chủ
nghĩa xã hội, tâm tình nhà thơ là tâm tình công dân, kiểu bút pháp là kiểu tụng
ca lãng mạn cách mạng. Tiếng ru đêm hoàn toàn không nằm
trong kiểu thi pháp ấy. Ta không xác định được người mẹ ru con ban đêm là ai.
Không gian bài thơ không phải là một không gian cụ thể của cuộc sống lao động
chiến đấu. Tác giả không miêu tả nhân vật, không tụng ca nhân vật, mà suy tư về
nhân vật. Nhân vật vừa là hiện thực, vừa là siêu thực. Ngôn ngữ thơ vừa là ngôn
ngữ miêu tả thực tại: “Người mẹ thức, sờ
tay lên lồng ngực/ Mặt lo âu, nhìn xuống con mình”, vừa là những ảo giác về
nhân vật. “Người mẹ mơ về giấc ngủ/ Xuyên
qua vì sao tới tận mặt trời…”. Nhà thơ nhìn người mẹ thức ru con mà tra hỏi
về hiện sinh, tra hỏi sự cảm nhận của chính lòng mình: “Con không khóc lời ru vẫn thống thiết/ Hình như người mẹ đang ru chính
chính?”. Những gì nhà thơ suy tư nằm trong hệ thống hình ảnh Siêu thực: Tiếng ru chắt ra từ lồng ngực, làm ấm đêm
hoang, tiếng ru thống thiết, xuyên qua vì sao tới tận mặt trời, tiếng ru cứ thế
đi tới bình minh… Thơ Hiện thực xã hội chủ nghĩa không có kiểu tư duy nghệ
thuật như thế.
Những bài Trên thảo nguyên, Sắc đẹp, Hoa lau, Tiếng cò
đêm, đều có những yếu tố mới lạ về thi pháp như Tiếng ru đêm. Nhưng đặc trưng thi pháp của tập thơ là kiểu thơ suy
tư (không phải kiểu thơ suy tưởng như thơ Chế Lan Viên). Lê Thanh Xuân đối diện
với hiện thực, nhìn ngắm hiện thực mà suy tư. Hiện thực không phải là đối tượng
miêu tả của Lê Thanh Xuân, mà hiện thực chỉ là cái cớ để nhà thơ truy tìm ý nghĩa
hiện sinh. Vì thế, có những bài như là dòng
ý thức trôi chảy vượt trên thực tại. Thí dụ, nhìn Cù lao Phố, anh không
miêu tả thực tại Cù lao Phố trong bối cảnh lịch sử xã hội, mà tra hỏi “Nào đâu, ta chợt ngỡ ngàng” rồi vui mừng
tìm ra điều kiếm tìm “May mà còn một chút
đây:/ Bóng chùa hoang tịch, rêu thay ý lời”. Nhìn hoa lau bằng con mắt “mong manh, hoang tưởng”. Hoa lau là nỗi
đau đời: “Nỗi đau hoang dại/ trắng một đời
mơ siêu thoát/ Lau mọc âm thầm”. Hình ảnh cô gái chăn bò rất lạ: “Cô gái chăn bò tựa vào trời xanh khẽ hát/
Đàn bò như đám mây vàng lang bạt/ Trôi hiền lành trong nhịp điệu cô đơn…”. Hiện
thực đã thăng hoa vào miền suy tư của nhà thơ. Những suy tư như thế không hề có
dính dáng gì với hiện thực.
Vì là thơ suy tư
nên thơ Lê Thanh Xuân có giọng buồn,
không phải là chất buồn của thơ lãng mạn, cũng không là nỗi buồn của mất mát hy
sinh, mà là nỗi buồn hiện sinh. Thực tại hiện lên là suy tư hiện sinh của nhà
thơ, đó là hiện sinh buồn: tuổi già đã đến: “Thu đã sắp cuối mùa/ Đã quên nhiều nhớ ít/ Chân chậm bước gần hơn/ Ngoài
kia chừng chớm lạnh/ Đông đã đến khẽ khàng” (Thơ tặng mình) nỗi buồn đời nổi nênh: “Nghìn xưa vẫn ở một nơi/ Ta thì ta với cuộc đời lênh đênh/ Công danh mắc
cạn đầu Ghềnh“(Nỗi buồn đong đưa), Sống là sống trong chiêm bao: “Giật mình lật nửa mảnh khuya/ Mới hay mình mới
đi về chiêm bao”(Nửa đêm). Không biết mình là người hay là ma (Bóng).
Tâm trạng luôn bất
an vì cuộc đời đâu cũng là bẫy rập (Bẫy, Tiếng cò đêm): “Con tôm con tép/ Nào dễ đâu cò?/ Bẫy đời giăng mắc/ Mảnh trăng đục mờ/
Tiếng cò se sắt/ Trong tôi…”. Bài thơ Không
đề là hiển hiện nỗi buồn hiện sinh về chính cảm nghiệm của nhà thơ vào lúc
tuổi đã cuối chiều: Cuối chiều sót tiếng
chim ri/ Nhặt lên mà nhớ thuở đi xa nhà”. Hồn thơ Lê Thanh Xuân đã thăng
hoa rồi.
“Ta như chút gió bất ngờ
Chút hoa như để đợi chờ đường ong
Chút lòng như để hiểu lòng
Sẻ chia với đá - chiều không là chiều”
(Bên núi đá Ba Chồng)
Lê Thanh Xuân
suy tư về hiện sinh nhưng thơ anh không phải là kiểu thơ tư tưởng, anh cũng
không lạc mất trong suy tư hư vô. Hồn
thơ anh vẫn canh cánh với đời, với qưê hương, với bạn bè, người thân. Anh
có những bài thơ rất cảm động với bà (Cây
cau), với mẹ (Hoa ngâu, Tưởng nhớ),
với cha (Cha tôi), với vợ, con (Em, Bài thơ viết cho con), với bạn (Gửi người bạn gái một thời, Tiếng gió),
với quê hương nghèo (Gửi quê hương, Ngoài
kia có một con đường). Anh cũng gửi tình cảm sâu nặng về thiên nhiên, con
sông, ngọn núi, con dốc, phố xá nơi anh đã đi qua (Dốc Cun, Sông Đồng Nai, Bên núi đá Ba Chồng, Đêm ngủ lại nguồn Đồng
Nai, Chút phố xưa, Mai Châu, Chu Giang..). Và dù viết về đề tài nào, hồn
thơ anh vẫn là những suy tư về hiện sinh, trên nền của tình cảm thắm thiết và tấm
lòng nhân hậu mang một nỗi buồn mênh mang khôn nguôi, một nỗi buồn không dễ gọi
tên, nỗi buồn không ta than, không hy vọng, và “cười trong tiếng nấc xa xôi “nghe tiếng cuốc đồng “kêu nhói đêm thâu”.
Thơ Lê Thanh
Xuân đem đến cho người đọc cái thú vị của những suy tư rất thật (không lãng mạn
cách mạng), những tình cảm rất đôn hậu (không khuôn sáo), và bất chợt những tứ
thơ mới lạ bay vút lên, trong một kiểu tư duy nghệ thuật khá mới của riêng anh
(Hoa ngâu, Tưởng nhớ, Tiếng ru đêm, Dốc
Cun, Trên thảo nguyên…).
B.C.T