Mấy bữa nay văn đàn xôn xao. Tiếc rằng cái
sự xôn xao ấy không phải vì có tác phẩm lớn ra đời phục vụ bạn đọc mà xôn xao
toàn chuyện ngoài văn chương, chuyện văn hội, văn đoàn. Giữa ngày giao mùa của
miền Đông Nam bộ, trời nóng bức, nhớ nhà văn Hoàng Văn Bổn, người mà anh em
chúng tôi luôn gọi thân mật là “chú Chín Bổn”. Ông vĩnh viễn ra đi ngày12.5.2005,
nhằm ngày 15.4 âm lịch. Trái tim của nhà văn “thiền” đã vĩnh viễn ngừng đập
ngay vào ngày Phật đản năm đó. Trước đây lúc còn khỏe, ông hay dẫn chúng tôi về
quê ông ăn đám giỗ, khi đến chỗ ngã ba sông Đồng Nai, ông ngồi lại, đôi mắt
buồn vời vợi ông nói:
-
Tại ngã ba sông này đã sinh ra ba
nhà văn lớn là Huỳnh Văn Nghệ, Lý Văn Sâm và Bình Nguyên Lộc, họ đã sống hết
mình cho đất nước và văn chương.
Ông không kể tên mình dù ông cũng sinh ra
tại ngã ba sông này. Rồi ông kể cho chúng tôi nghe chuyện ngày xưa của ông. Ông
tên thật là Huỳnh Văn Bản, sinh ngày 7.5.1930 tại ấp Long Chiến, làng Bình
Long, huyện Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (nay là Vĩnh Cửu, Đồng Nai). Đang học trung
học thì Cách mạng tháng Tám thành công, 15 tuổi ông đi kháng chiến. Trải qua
nhiều chức vụ, dạy nhiều học trò và viết văn từ năm ấy. Tròn 18 tuổi ông được kết
nạp Đảng. Chưa đến 20 mươi tuổi ông đã làm trưởng ty giáo dục và viết tác phẩm: “Dưới bóng dừa xiêm”, “Mày giết anh tao”.
Theo suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, dù trên đầu bom nổ, dưới
đất đạn bay, nhưng vai ông luôn vác máy quay phim, tay cầm súng, tay cầm bút.
Đất nước thống nhất, chiến tranh biên giới bùng nổ, ông lại ba lô, nón cối lên
đường ra trận. Suốt những năm tháng ác liệt ấy, ông luôn có mặt ở điểm nóng của
chiến trường K như hai cuộc chiến trước, lúc nào ông cũng xông xáo bất chấp
nguy hiểm. Giữa lằn ranh của sự sống chết, vậy mà vẫn có hàng chục tiểu thuyết
ra đời. Nào “Bông Hường, Bông cúc”,” Vỡ
đất”,” Tướng Lâm Kỳ Đạt”,” Trên mảnh đất này”, “Nước mắt giã biệt”,” Ngôi sao
nhớ ai”… Những trang viết mà nhà phê bình Nguyễn Hoàng Sơn gọi: “ngổn ngang cực nhọc nhưng đầy tâm huyết” của
ông làm say đắm nhiều thế hệ. Ngoài ra hàng trăm bộ phim thời sự chiến tranh
được quay ngay tại chiến trường, giải thưởng văn học cũng nhiều, giải thưởng
điện ảnh trong nước, quốc tế cũng nhiều. Cuộc đời của ông oanh liệt như vậy, sự
nghiệp của ông vĩ đại như vậy mà ông khiêm cung nhỏ bé. Là hội viên sáng lập
của Hội nhà văn Việt Nam, ông từ bỏ “chiếu
trên” của làng văn về Đồng Nai xây dựng Hội Văn Nghệ, nhưng chưa bao giờ
ông trách móc Hội nhà văn lời nào, còn xui những người trẻ vào Hội để học hỏi
giao lưu làm giàu vốn sống. Hàng ngày cọc cạch đạp xe lên Hội ngồi đọc bản thảo
của đàn em, giới thiệu họ vào Hội nhà văn rồi khắc khoải chờ đợi kết quả. Ai
nói gì cũng cười, ai ba hoa cũng cười, ai lợi dụng cũng cười. Nụ cười nhân hậu
độ lượng luôn nở trên gương mặt hiền lành cho đến giây phút cuối đời.
Đời sống nhân hậu tử tế và độ lượng của ông
đã ảnh hưởng đến thế hệ chúng tôi. Tôi nghĩ cái sự tử tế chẳng phải lúc nào
cũng bằng hành động mà đôi khi chỉ cần nụ cười toát lên từ nhân cách sống của
con người!
Nguyễn Một