Những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, tôi đang học ở Thành phố Hồ Chí Minh. Nhà tôi ở Nhơn Trạch, cách Sài Gòn hơn ba chục cây số, không dư giả gì. Tôi đi học bằng xe đạp, sáng thứ Hai đi, chiều thứ Bảy về. Những ngày trong tuần tôi ở lại ký túc xá. Thỉnh thoảng, ba tôi lại cho đứa con gái “giống ba như đúc" ít tiền uống nước dọc đường cho đỡ mệt. Tôi biết để có số tiền ít ỏi đó, ba đã dành thời gian rảnh rỗi hiếm hoi trong ngày để vá xe đạp. Lúc ấy, em trai tôi mới ra nghề sửa xe máy. Quán ở ngay nhà mặt tiền, khách hàng khá đông nên ba tôi nhận phần vá xe đạp. Ba chỉ muốn giúp người gặp sự cố dọc đường với những chiếc xe đạp thồ hàng nặng nề, nhưng họ cũng thơm thảo gửi lại chút tiền để ông uống nước. Tiền bán tôm cá ba chài lưới được, mẹ tôi giữ hết để lo liệu, chi tiêu cho cả gia đình.
Một lần, ba đưa cho tôi một gói thuốc viên. Theo lời ba thì đây là loại thuốc bổ do một người quen ở Mỹ gửi về biếu thân nhân, rồi họ sớt lại tặng ba một ít. “Quý lắm đấy. Con nhớ uống mỗi ngày cho khỏe". Nghe ba nói vậy, dù chưa biết là thuốc gì và quý thế nào nhưng lòng tôi dâng ngập rưng rưng. Tôi nghĩ ngay lúc đó, đúng ra, ba mới là người cần uống thuốc bổ. Sao người lại dành cho tôi!? Năm ấy, ba tôi mới sáu mươi, độ tuổi vẫn tráng kiện, minh mẫn, nhưng những chuyến đi chài lưới đánh bắt cá thường xuyên khiến ba tôi hao tổn sức khỏe nhiều vì phải thức thâu đêm dầm mình trên sông nước. Đêm là vậy, ban ngày cũng không thể có một giấc ngủ yên trọn vẹn.
Tôi cũng từng cùng ba đi chài lưới đêm nên thấu hiểu nỗi vất vả cực nhọc của người lênh đênh sông nước. Ở quê tôi, việc đi chài lưới trên sông thường phải có hai người, một người chèo thuyền, một người quăng lưới. Người chèo thuyền có thể là phụ nữ, trẻ em; miễn là biết chèo chống, phụ việc cho người quăng lưới. Mái chèo đẩy thuyền đồng thời cũng là mái lái. Người chèo ngồi dựa lưng phía lái, dùng hai chân đạp vào hai mái chèo ở hai bên mạn thuyền như đạp xe đạp, nhẹ nhàng điều khiển con thuyền lướt tới trên dòng sông. Người quăng lưới hầu hết là đàn ông, thanh niên, không chỉ chèo chống giỏi, bơi lội tài, mà còn phải có sức khỏe tốt để đứng vững vàng phía mũi thuyền, quăng chài thật tròn, thật êm xuống chỗ đoán là có cá tôm rồi kéo lưới về. Lưới kéo lên rồi, hai người cùng gỡ cá cho vào khoang thuyền. Trong khoang cho sẵn ít nước để cho cá khỏi chết.
Hồi ấy, nghề vạn chài chúng tôi hiếm khi đi những chuyến dài ngày ra tận cửa biển, chỉ theo con nước, đi rồi về. Theo con nước nên có lúc phải đi sớm, có khi đi chiều, thường xuyên đi đêm. Đi chài đêm bao giờ cũng cực hơn cả. Hôm nào trời nhiều gió thường ít muỗi, gặp hôm lặng gió, từng đám dĩn (loài côn trùng họ muỗi nhỏ li ti) bám vào chân như đôi vớ đen, rất ngứa ngáy khó chịu, phải đốt ít củi vụn trên thuyền cho có khói tỏa ra mới đỡ dĩn.
Sông đêm có khi rất thơ mộng, trữ tình. Ánh trăng bàng bạc. Những quầng nước lóng lánh. Hai bên bờ đom đóm đậu dày trên những cây bần, cây đước nhấp nháy như những cây thông Noel lung linh. Nhưng sông đêm ngày mưa thì thật buồn. Trời tăm tối. Mưa rả rích. Những đêm buồn như thế lại vô tình phát hiện có xác chết lềnh bềnh trôi sông thì thật tá hoả tâm linh và thảm thiết thê lương! Người lao động trên sông nước như dân vạn chài gặp xác chết trôi sông thường lặng lẽ, nhẹ nhàng ghé mạn thuyền lại, tìm cách buộc xác người xấu số vào cây bần, cây đước ven sông, tìm cách loan báo tin giúp người tìm kiếm, để thân nhân họ và có khi cơ quan chức năng sớm nhận tin báo mà tìm thấy xác. Ba tôi từng làm việc đó đôi lần, ba coi đó như việc phải đạo, làm phước giúp người xấu số.
Đi chài đêm còn phải chèo thuyền vào những con rạch. Người quăng chài phải lặn xuống dòng nước lạnh lẽo để gỡ lưới mỗi khi lưới vướng gốc cây. Đôi khi còn vô tình phải chịu những tai họa bất ngờ trong tình huống bị cá ngát, cá ngạnh dùng ngạnh sắc “thách" vào tay đau buốt óc, phải ráng chịu đựng cho đến khi về tới nhà. Một vài lần như thế, sau này ba tôi được những ngư dân lâu năm cho một loại quả khô, nhỏ (tôi không hỏi ba là quả gì). Chỉ cần xẻ đôi quả ấy và đặt mặt cắt lên vết “thách", cơn nhức buốt sẽ dịu ngay.
Vất vả là thế nhưng ba tôi đã không cần uống thuốc bổ mà để dành cho con gái. Thực ra trong đời tôi, ba đã cho rất nhiều thứ “thuốc bổ" quý giá. Tôi mê đọc sách vì từ hồi nhỏ, tôi đã thích đọc ké đủ loại sách ba mua. Tôi cũng thích nhìn những chồng nhật báo ba xếp lại mỗi ngày mỗi dày thêm, trong đó có bao điều lí thú. Tôi còn học được ở ba những đức tính tốt đẹp: yêu thương gia đình, sẵn sàng nhường nhịn anh em, thuận thảo với hàng xóm, óc hài hước lạc quan, nhất là sự sáng tạo, kiên cường trước mọi gian nan thử thách.
Nhà tôi hồi ấy vừa làm ruộng làm rẫy, vừa thêm nghề chài lưới. Trong mắt tôi, ba là mẫu người đàn ông rất tháo vát, giỏi giang. Trước Giải phóng, cả nhà sống ở Đà Lạt, xứ sở của đồi núi, muôn hoa. Sau Giải phóng, cả nhà dọn về Nhơn Trạch, làm quen với sông nước, ruộng đồng. Ba tôi nhanh chóng tìm kế mưu sinh. Cả nhà đi phát hoang được hơn một mẫu rẫy trồng khoai lang, khoai mì, đậu phộng… Ba tìm mua thêm đất trồng lúa tẻ, lúa nếp ở trong cánh đồng làng và bên sông. Ông còn học lỏm cư dân địa phương nghề chài lưới, rồi sắm một chiếc thuyền cho tiện việc trồng lúa bên sông và đi đánh chài. Chỉ một ngày, ba tôi đã chèo được thuyền, vững vàng bát cậy theo dòng nước thủy triều bán nhật. Chỉ đôi ngày, ba tôi đã quăng được chài cho bung tròn rộng, lưới được nhiều cá tôm. Làm ngư dân phải giỏi bơi lặn, ba tôi sở trường về môn này, dù những năm ở Lâm Đồng, tôi chỉ thấy ba tôi giỏi leo núi.
Có lần, ba tôi còn trở thành “người hùng" trong mắt tôi. Một đêm, em trai tôi theo ba đi chài. Chưa đến lúc quăng chài nên ba tôi để em ngồi nghỉ ở mũi thuyền, còn ba ngồi cuối thuyền, đạp hai mái chèo cho thuyền lướt tới. Nước từ các con rạch tuôn ra ào ạt, gặp nhau tạo nên những xoáy nước nguy hiểm rồi cuồn cuộn về hướng mấy chiếc thuyền đóng đáy. Đáy là lưới lớn giăng ngang một khúc sông nhằm chặn bắt cá, được đánh dấu bằng những phao lớn nổi trên mặt sông để thuyền bè khác biết mà tránh ra xa. Phao hình tròn như quả cầu, cách đáy một khoảng chừng trăm mét. Ba tôi đang vất vả chèo thuyền tránh những dòng nước xoáy thì bất ngờ em trai lơ mơ ngủ gật rơi tõm xuống sông. Dòng nước ròng mạnh cuốn em về phía những phao đáy, hướng về phía tử thần. Bị nước cuốn vào đáy là rơi vào nỗi tuyệt vọng cuối cùng! Phản xạ thật nhanh, ba lao ngay xuống dòng nước đêm lạnh. Em tôi hốt hoảng ôm chặt lấy ba trong khi ba thật vất vả cố bơi ngược dòng nước đang ồ ạt muốn lôi cả hai cha con về chầu Hà Bá. Ngay lúc ba tôi gần như đuối sức thì may có mấy chiếc thuyền câu xuất hiện, cứu kịp hai cha con. Qua lời ba kể lại, tôi càng khâm phục ba và hiểu sâu sắc hơn về tình yêu thương vô bờ của cha mẹ, luôn nghĩ đến con, nghĩ cho con, làm mọi việc đều vì các con, nhất là lúc nguy cấp, sẵn sàng hi sinh vì con, quên cả mạng sống của mình.
Ba tôi luôn nhường cho con cái những gì tốt nhất. Lẽ ra với số thuốc bổ ba cho, tôi nên uống mỗi sáng một viên để khỏi phụ lòng ba. Nhưng mới uống vài viên thì tôi đem thuốc ra tiệm thuốc tây để bán. Tôi không dị ứng thuốc, nhưng lúc ấy tôi cần tiền mua giáo trình học. Thuốc của Mĩ nên bán được giá. Cầm tiền trong tay, tôi chạnh lòng nghĩ đến sự hi sinh của ba. Tôi tự nhủ: “Bao giờ con học xong, con sẽ dành nhiều thời gian chăm sóc sức khỏe cho ba".
Tôi đã thực hiện được nửa lời tự hứa. Tôi đã có thời gian chăm sóc ba nhưng không nhiều. Ba tôi qua đời đột ngột vì một tai nạn giao thông. Mỗi lần nhớ ba, lòng tôi ray rứt khôn nguôi khi nghĩ đến những viên thuốc quý ba để dành. Bây giờ, thứ “thuốc bổ" mà ba dành chung cho con cái trước kia, những lời khuyên dạy dỗ hằng ngày vẫn như luôn hiển hiện trước mắt tôi, trong trái tim tôi, đồng hành cùng chị em và gia đình tôi trong cuộc sống hằng ngày. Ba mất rồi, trong lòng tôi cũng như người thân lúc nào cũng như có khoảng trống. Bóng dáng ba và những viên thuốc quý như lời ba dạy còn đây. Anh chị em chúng tôi đang chăm sóc, phụng dưỡng mẹ, thương yêu đoàn kết nâng đỡ nhau, xây dựng bầu không khí hòa thuận trong gia đình chung riêng và trở thành những người có ích cho xã hội. Lòng thầm nghĩ; đó cũng như cách luôn tưởng nhớ và trả ơn ba.
N.K
Nguồn: Văn nghệ Đồng Nai số 89 (Tháng 7 năm 2025)