Thứ 6 - 26/02/2016
Màu đỏ Màu xanh nước biển Màu vàng Màu xanh lá cây
Chào mừng Đại hội Đảng bộ các cấp và hướng đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV
Kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng 8 và Quốc khánh (02/09/1945 - 02/09/2025)
“Rực rỡ sắc mai vàng, mừng Đảng, mừng Xuân, mừng Đất nước vươn cao tầm đổi mới; Thắm tươi màu cờ đỏ, chúc Đoàn, chúc Hội, chúc Đồng Nai nỗ lực để thành công" (Dương Thanh)
XÀ MỘNG

​Ông đồ Đặng bảo năm nay rét đậm. Tiết đại hàn trên đỉnh núi Ba Vì tuyết phủ trắng xóa.
Huệ vẫn lo cho vườn chè. Sương muối làm cho búp trà bị héo và rụng đi, sang năm vườn chè ít lộc, không nhiều lá trà non thì sinh kế nhà cô lại khó khăn. Từ ngày mẹ mất sớm, một tay Huệ tần tảo sớm khuya, hái chè từ lúc ngọ đến tối mịt, tinh mơ lại ra chợ làng bán. Huệ những mong cho cha khỏe mạnh, thằng Lân có chí mà học hành nên người.
Ông đồ bị đau mắt. Chả hiểu sao tháng Chạp còn có dịch đau mắt đỏ. Người ta bảo xuân kỳ năm ngoái mâm lễ cúng thần ôn dịch sơ liêu quá nên thần giận. Ông đồ mắt mở không ra, đắp lá trầu không xát muối, bệnh cũng không thuyên giảm. Huệ cũng đau mắt, nhưng vẫn còn thấy he hé. Cô cố ra vườn chè hái ít lá trà bánh tẻ, họa chăng mai có người mua, lấy tiền mua gạo.
Bàn tay cô chạm vào cành chè, người cô lạnh tê tái. Cô sửa lại vành khăn mỏ quạ che kín tai. Ngày trùng lục năm nay cô đã ăn vài quả vải, bát thịt chó nhựa mận để hấp thụ dương khí. Áo tứ thân đồng lầm không đủ làm ấm, cô mặc thêm áo tơi. Những lá trà bánh tẻ đã lưng lửng bồ, mắt cô đau buốt. Cô ngồi dựa vào gốc chè, nước mũi chảy ra lòng thòng.
Rồng rắn lên mây
Nhà ai có cây núc nác
Hỏi thăm ông thầy thuốc
Ông thầy đi vào kinh.
Tiếng đồng dao từ đâu vọng lại, cô nghe như xa như gần. Nhà chúa đã cấm trẻ con chơi trò này. Cô hỏi ông đồ sao người ta không cho trẻ con chơi, ông bảo chuyện rồng rắn cắn nhau, nhà chúa chạnh lòng.
Cô nghe mùi giấy cháy, mùi hương trám ngào ngạt. Hôm nay Hai mươi tháng Chạp mà nhiều nhà đã đưa ông Táo về trời. Gần đây có lệ đưa ông Táo sớm, đúng ngày giỗ cố thái tử. Dân chúng thương người hiền đức bị bức tử nên làm giỗ giấu, nhưng sợ quan quân nhà chúa hạch sách nên biện bạch là đưa ông Táo về trời sớm.
Đầu cô quay cuồng. Mắt cô nhìn mặt trời mà nhặm mở không ra. Ôn dịch thế này thì còn Tết nhất gì nữa. Từ trong vô thức, cô nhớ lại mấy người đồng cốt kháo sự linh thiêng của linh hồn cố thái tử. Cô khấn thầm: rồng rắn lên mây, hỏi người oan khuất, rắn còn rồng mất, thiên linh địa linh.
Cô thấy mình mặc áo tía, chân đi hài gấm, tay cầm ngọc như ý. Con gì không phải rắn, không phải rồng, mình lấp lánh như trâm vàng quấn lấy cô. Cô vừa sợ hãi, vừa thích thú, chân lông dựng cả lên. Đùi cô tê cứng, hai bàn chân duỗi ra. Cô ú ớ như quát tháo, như cầu xin. Nó nhe lưỡi có hai nhánh xanh đỏ âm dương cắn vào cổ cô. Cô thấy cả thân mình tê liệt như bị trói.
Cô tỉnh dậy, thấy mình dưới gốc cây chè. Mặt trời đã vào lúc vãn hà dư huy. Cô sờ vào cổ mình, thấy vết thương vẫn còn chảy nước vàng. Không biết cơn mê là thực hay mộng, cô gánh bồ chè về làng.
Cô chọn lấy mấy lá trà non nhai kĩ, rồi đắp lên mắt cho cha và em trai. Đến sáng mai hai người khỏi bệnh.

Xà mộng - Lê Trí Dũng.jpg

Minh họa: Lê Trí Dũng

Bà tiệp dư họ Trần về làng thì bị đau mắt. Bà viết tờ khải với chúa, nại rằng đang bị lên thủy đậu không dám về phủ. Bà là người nhà chúa, mà lại bị đau mắt sau dịp giỗ cố thái tử thì rõ tình ngay ý gian. Bà đã xin đủ loại thuốc từ nhà chùa đến đạo sĩ, nhưng mắt vẫn đau như cắt. Nghe tin Đặng thị có tài chữa bệnh nên mời qua.
Đặng thị tuy sinh trưởng nên thôn ổ, nhưng mắt phụng mày ngài, dung nghi đoan trang. Cô gặp bà chúa, tâu bẩm rành mạch. Cô bảo, tiện nữ lấy chín búp trà non nhai kĩ, đắp vào mắt cho bà, bà ngủ một giấc đến mai sẽ khỏi.
Bà tiệp dư họ Trần khá hài lòng với Đặng thị. Biết bà tên tục là Lộc, nên Đặng thị gọi lá trà non là búp.
Đặng thị bỏ làng bán sơn địa Phù Đổng, về ở trong phủ chúa tại kinh kì.
Bà tiệp dư họ Trần bỏ công dạy dỗ cô gái quê tên Đặng Thị Huệ đủ công dung ngôn hạnh. Nhờ nhanh ý, lấy hoa huệ cắm vào mực ngũ sắc mà được Đô Tĩnh Vương sủng ái. Chẳng bao lâu được phong lên hàng tu dung.
Đô Tĩnh Vương Trịnh Sâm lên ngôi chúa đã nhiều năm. Trịnh Sâm có tướng mạo tuấn tú kì vĩ, văn võ song toàn, tính tình cương cường có phần tàn nhẫn. Vương cho dẹp đám giặc núi Hoàng Công Chất, đánh cho Lê Duy Mật ở Thanh Hoa ngoại phải tự thiêu bằng thuốc súng.
Trịnh Sâm bình định được Nam Hà, chúa Nguyễn phải chạy trốn khắp nơi. Lại giữ hòa khí với anh em Nguyễn Nhạc. Bên gia tộc có chú là Trịnh Kiều phò tá, lương đống triều đình có Lê Quý Đôn bậc đại học sĩ tham mưu, có thầy là Nguyễn Hoàn hàng trí giả can khuyên tùy lúc.
Bên ngoài trị quốc bình thiên hạ, giỏi về dụng pháp dụng nho. Các bậc hàn lâm có chê chuyện này chuyện kia, nhưng vẫn ngầm công nhận Trịnh Sâm là bậc anh hùng.
Đặng thị ở gần chúa, được yêu chiều, biết được bí mật của chúa.
Chúa là người uy dũng, lúc nào cũng có cấm vệ binh Thanh Nghệ thân tín bảo vệ, nhưng ngài lại mắc chứng kinh phong.
Ngài lâu nay cứ nghe tiếng ù ù bên tai. Tiếng như tiếng trống rền liên tục, mãi mới dứt. Có người bảo đó là tiếng trống trời.
Đặng tu dung chỉ độ mười bảy, tính tình giản dị, hồn nhiên. Gần bên Đặng thị, chúa được yên lòng.
Chúa có thửa của bọn Tây Dương một khẩu súng lục, lúc nào cũng mang theo mình. Thân súng bằng vàng, có khảm đá hồng ngọc, dạ minh châu và hắc nguyệt quang.
Đặng thị nhiều lần được thị tẩm vẫn thấy chúa mang theo súng. Đặng thị gặng hỏi chúa, chúa không trả lời. Đặng thị kể chuyện bị rắn cắn ở vườn chè, rồi vạch cái sẹo ở cổ cho chúa xem. Gương mặt chúa đăm chiêu.
Lê Duy Vĩ nổi bật nhất trong ba mươi hoàng tử của vua Lê. Thái tử Vĩ tướng mạo khôi ngô, dung nghi đĩnh ngộ, lại là người hiền đức. Dân chúng xưa nay vẫn coi nhà Trịnh là tiếm ngôi, một lòng muốn nhà Lê lấy lại địa vị. Thiên tư tài mạo của thái tử Vĩ làm dân chúng ôm trong lòng kì vọng nhà Lê trung hưng cũng rực rỡ như thời Lê sáng thế.
Vì một chỗ ngồi trong bữa tiệc, mà Trịnh Sâm mang tị hiềm với thái tử Vĩ. Sâm chỉ cây giáng hương trong cung vua mà thề, ta và thằng Vĩ không đội trời chung. Cây giáng hương đang mùa xuân mà bị chết khô.
Thái tử Vĩ bị Trịnh Sâm dùng mưu bức tử.
Rồng rắn lên mây
Nhà ai có cây núc nác.
Dân chúng nghe chuyện ai cũng khóc thương, nên ngầm làm giỗ vào Hai mươi tháng Chạp.
Đặng thị được chúa yêu chiều, đòi gì cũng được. Đặng thị đón em là Đặng Mậu Lân lên kinh kì, cho mở phủ như hoàng thân quốc thích. Lân làm nhiều điều xằng bậy, dân gian gọi là cậu giời.
Đặng thị cho chúa ăn lá trà non do mình nhai, bệnh kinh phong có phần thuyên giảm.
Đặng thị ở trong phủ bảo rằng nhớ chợ quê nơi thôn dã. Chúa cho mở hội long trì. Lấy hàng trăm cây lụa ngũ sắc cắt thành đèn lồng, trong đốt sáp ong, treo lên cây rực rỡ cả một góc Hồ Tây, gọi là cây phù dung. Đám quan thị, quan văn, quan võ mặc mớ ba mớ bảy bán đồ hàng, giả vờ mặc cả chua ngoa.
Chúa cùng Đặng tu dung đi thuyền rồng trên sông. Nhà trò đàn hát, trúc tiêu dìu dặt. Các di nữ Chàm da bánh mật, ăn vận như thiên nữ hát điệu chầu thượng đế trên bờ. Trăng Rằm sáng vằng vặc, bỗng chúa thấy góc hồ mây đen vần vũ, nước dựng lên như xà quần. Một người mặc áo xanh, chít khăn hồng bay đi bay lại trước thuyền chúa. Chúa hỏi Đặng thị: Khanh có thấy gì không?
Đặng thị thấy một khải tượng kì lạ. Vết sẹo trên cổ ngứa dữ dội. Đặng thị như chợt nhớ điều gì mà Trần tiệp dư đã dặn, liền bẩm trang trọng: Khải bẩm chúa thượng, thiếp có thấy gì đâu.
Thuyền rồng chòng chành, cốc trà ngọc vỡ tan. Trán Đô Tĩnh Vương rịn cả mồ hôi, miệng lẩm bẩm: quái lạ, oan hồn thằng Vĩ.
Chúa lấy súng lục, chĩa vào đống sen tàn bấm cò.
Đám quan thị nghe súng nổ chạy toán loạn. Cấm vệ binh ra nạt nộ ổn định tình hình. Mặt hồ lại lặng sóng, trăng lại vằng vặc, nhưng đêm hội không còn vui.
Đặng thị mang phụng thai. Chúa ít thấy oan hồn của cố thái tử Vĩ hiển hiện.
Đặng thị sinh được một con trai. Chúa yêu đặt tên là Cán. Đặng thị từ tu dung được phong thành tuyên phi. Cả xứ Đàng Ngoài, kiêng từ huệ, hoa huệ gọi thành hoa tuệ.
Thê thiếp nàng hầu của Trịnh Sâm lên tới bốn trăm. Nhưng chúa chỉ nuông chiều mỗi Đặng thị. Cho mặc quần áo như chúa, ăn cùng mâm, ngủ cùng giường, đi cùng xe như vợ chồng nhà thường dân. Đặng thị được nước thì đòi hết thứ này đến thứ khác, không được thì khóc lóc thảm thiết.
Khi Đô Tĩnh Vương bình định được Nam Hà, có lấy được trong đền thờ của dân Hời một viên ngọc rắn. Viên ngọc có vân xanh đỏ vàng như của loài kì đà. Nếu bị rắn cắn chỉ cần dịt vào vết thương thì ngọc hút độc ra. Chúa rất quý viên ngọc, vì những lần lên cơn kinh phong, ngài nắm chặt kỳ thạch, thì bệnh giảm nhiều. Đặng thị có ý đòi xem, chúa đưa xem và bảo coi chừng sây sát. Đặng thị nổi giận ném viên ngọc xuống đất, bảo coi của hơn người.
Những ai từng biết cố thái tử Vĩ, nay nhìn thế tử Cán thì không khỏi ngạc nhiên. Dung nghi, dáng vóc hai người như một. Người ta sau lưng xầm xì con lộn báo oán, trước mặt nhà chúa và tuyên phi không dám hé răng.
Đô Tĩnh Vương vì tình riêng mà bỏ trưởng lập thứ. Phế Trịnh Khải, đưa Trịnh Cán lên ngôi thế tử. Đến tuổi bốn mươi thì tâm bệnh chúa càng nặng. Chúa sợ nắng sợ gió, ban ngày cũng ở phòng giăng màn trướng kín bưng, thắp nến sáng choang. Đại khanh có ý can ngăn, chúa bảo khi xưa Lê Thái Tổ cũng phế Tư Tề mà lập Nguyên Long.
Một giáo sĩ thừa sai Tây Dương khi ra Đàng Ngoài truyền giáo, gặp Đô Tĩnh Vương, dâng lên chúa một chiếc đồng hồ quả lắc rất tinh xảo. Riêng chai nước hoa thì đòi đổi lấy một ngàn cây lụa vân. Tuyên phi cứ nằng nặc đòi chai nước hoa cho bằng được. Chúa tổ chức một buổi tiệc trà, mời đại học giả Nguyễn Hoàn đối đáp với giáo sĩ có bằng tiến sĩ thần học. Hai người tranh luận về philosophy.
Cuối cùng giáo sĩ chịu thua, dâng chai nước hoa cho chúa. Tuyên phi được vật quý, rất hài lòng. Nhưng bà Nguyễn thị, mẹ chúa vốn người đài các, mỗi lần ngửi mùi nước hoa ấy thì bảo đấy là mùi nai động đực, mùi chồn hương, tanh mùi cá nhà táng.
Trịnh Cán sau được lên ngôi chúa, nhưng đoản mệnh. Trịnh Khải được thế lực kiêu binh đưa lên nắm quyền bính, trả thù Đặng thị, bắt về ngoại Thanh Hoa làm bà từ giữ miếu, lại còn làm tình làm tội.
Thời bấy giờ có nhiều người ham thích những kì truyện, đi khắp nơi sưu tầm, biên thành sách, dùng thạch bản in ra, bán chạy, rất hốt bạc. Nhiều người tìm chứng cứ, lý lẽ để phản bác những truyện hư huyễn đó, cũng in thành sách, rất nổi tiếng.
Có người lặn lội về Hà Tĩnh gặp cụ Hải Thượng Lãn Ông hỏi xem có phải thế tử Trịnh Cán mắc chứng bệnh gì mà mắt nhắm, gật đầu, tay gãi họng như người bị thắt cổ.
Hải Thượng Lãn Ông vừa là dược sư, vừa là đạo sư, bảo rằng: tâm như công họa sư, nói có thì sao, nói không thì sao. Có mà như mộng như huyễn như bào như ảnh. Ông Kiều Đàm bảo, thấy sợi dây tưởng rắn thì sợ hãi, đảo điên mộng tưởng, nhìn kĩ sợi dây thì bình tâm. Rắn không có, nhưng có mộng rắn.
Rồng rắn lên mây
Nhà ai có cây núc nác
Hỏi thăm ông thầy thuốc
Ông thầy thuốc cũng thua
Thân bệnh thuốc mua
Bệnh tâm tự chịu.

V.V.S.T

 

Nguồn: Văn nghệ Đồng Nai số 88 (Tháng 6 năm 2025)

VŨ VĂN SONG TOÀN
Object reference not set to an instance of an object.

Liên kết webiste

Thăm dò ý kiến

Đánh giá về trang thông tin điện tử Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đồng Nai

 

Số lượt truy cập

Trong ngày:
Tất cả:

HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT ĐỒNG NAI
Địa chỉ: 30 Đường Nguyễn Ái Quốc, P.Tân Tiến, Thành phố Biên Hoà, Đồng Nai
Điện thoại : 02513.822.992; Email: hvhnt@dongnai.gov.vn
Chịu trách nhiệm xuất bản: NSND. Đạo diễn Giang Mạnh Hà – Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đồng Nai.
Trưởng Ban biên tập: Trần Thu Hằng​​