Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta xác định: “Tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề
cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển
các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của
nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc
ta, mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”(1).
Phát triển văn học, nghệ thuật nói riêng, phát triển văn hoá, con người nói
chung là một trong những nội dung quan trọng trong tư tưởng của Người.
Bác Hồ với văn nghệ sĩ (từ trái qua: Nhà thơ Tố Hữu, nhà văn Phan Tứ,
người ngồi bìa phải là nhà báo Trần Đình Vân) - Nguồn: Internet.
Văn học, nghệ thuật là lĩnh
vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hóa; là nhu cầu thiết yếu, thể hiện
khát vọng chân, thiện, mỹ của con người; là một trong những động lực to lớn trực
tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện
của con người Việt Nam. Sớm nhận ra vai trò to lớn của văn hoá nói chung, văn học,
nghệ thuật nói riêng, ngay từ những năm bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc
không chỉ viết những tác phẩm chính luận vô cùng sắc sảo mà Người còn sáng tác
văn học, nghệ thuật, coi đó cũng là một trong những phương thức hữu hiệu để làm
cách mạng. Người viết Con Rồng tre (kịch, 1922), các truyện ngắn, bút
ký: Lời than vãn của bà Trưng Trắc (1922), Vi hành (1923), Những
trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu (1925)… Sau này, trong nhà tù của Tưởng
Giới Thạch (8/1942 - 9/1943), Hồ Chí Minh viết Nhật ký trong tù gồm
hơn 100 bài thơ chữ Hán. Năm 1963, hồi ký mang tính tự truyện Vừa đi đường vừa
kể chuyện (bút danh T.Lan); năm 1964 Những mẩu chuyện về đời hoạt
động của Hồ Chủ tịch (bút danh Trần Dân Tiên) được xuất bản. Sáng tác văn học
của Hồ Chí Minh còn được tập hợp trong các tác phẩm là Thơ chữ Hán Hồ
Chí Minh (36 bài), Thơ Hồ Chí Minh (86 bài)… Đó là một sự nghiệp
sáng tác đồ sộ, góp phần làm nên tên tuổi một danh nhân văn hóa kiệt xuất của
nhân loại. Trong số những tác phẩm văn học của Hồ Chí Minh, tập thơ Nhật ký
trong tù là tác phẩm đặc biệt có giá trị to lớn về nhiều mặt, được công
nhận là bảo vật quốc gia (cùng với bốn tác phẩm chính luận bất hủ khác của Người).
Nhưng với tất cả sự khiêm tốn vốn có, chưa bao giờ Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận
mình là một nhà văn nghệ. Nói chuyện trong buổi bế mạc Đại hội Văn nghệ toàn quốc
lần thứ hai (ngày 28/02/1957), Người chỉ nhận mình là “một người yêu chuộng văn
nghệ” mà thôi.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, vai trò và sứ mệnh của nền văn học, nghệ
thuật tiến bộ bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ và tác động qua lại với nhau. Sứ mệnh
ấy cần phải trở thành động lực thôi thúc từ bên trong, cao cả, thiêng liêng đối
với sự phát triển. Vai trò của văn hóa (trong đó có văn học, nghệ thuật) được Hồ
Chí Minh đề cao ngang với chính trị, kinh tế và xã hội, trong đó văn hóa là kiến
trúc thượng tầng. Gửi thư cho các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa 1951, một lần
nữa Hồ Chí Minh khẳng định “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác,
không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”(2). Giữa
văn hóa, nghệ thuật với kinh tế và chính trị có mối quan hệ biện chứng. Theo
đó, văn hóa, nghệ thuật được dẫn dắt, định hướng bởi tư tưởng chính trị, đồng
thời chịu sự quyết định của cơ sở kinh tế. Tuy nhiên, văn hóa, nghệ thuật cũng
có tính độc lập tương đối, nghĩa là nó vẫn có thể phát triển theo logic nội tại
và tác động trở lại một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đối với chính trị và kinh
tế. Văn hóa, nghệ thuật tiến bộ muốn chứng minh vai trò to lớn và sứ mệnh cao cả
của mình thì phải tích cực tham gia vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân do Đảng
Cộng sản lãnh đạo. Trong “Thư gửi Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai”
(1948), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Trong sự nghiệp vĩ đại kháng chiến kiến
quốc của dân tộc ta, văn hóa gánh một phần rất quan trọng… Nhiệm vụ văn hóa chẳng
những để cổ động tinh thần và lực lượng kháng chiến kiến quốc của quốc dân, mà
cũng phải nêu rõ những thành tích kháng chiến kiến quốc vĩ đại của ta cho thế
giới. Các nhà văn hóa ta phải có những tác phẩm xứng đáng chẳng những để biểu
dương sự nghiệp kháng chiến kiến quốc bây giờ, mà còn để lưu truyền cái lịch sử
oanh liệt kháng chiến kiến quốc cho hậu thế”(3). Một lòng đi theo lý tưởng của Đảng, làm cách
mạng, văn nghệ sĩ chắc chắn sẽ được mở mang tầm mắt, sẽ nhận thức ngày càng đầy
đủ hơn nhiệm vụ chính trị của đất nước trong từng thời kỳ, sẽ biết mình cần phải
làm gì để tạo ra “những tác phẩm xứng đáng” cho hiện tại và tương lai. Sau này,
ngày 01/12/1962, nói chuyện tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ III, Chủ tịch
Hồ Chí Minh phân tích một cách sâu sắc rằng dân tộc bị áp bức thì văn nghệ cũng
bị mất tự do. Văn nghệ muốn tự do thì phải tham gia cách mạng. Đó thực sự là một
chân lý. Ở đây, Hồ Chí Minh đã đề cập đến một vấn đề rất cơ bản của văn nghệ,
đó là tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ. Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do sáng tạo sẽ
tạo ra động lực để văn nghệ sĩ phát huy tính độc lập và năng lực sáng tác, biểu
diễn. Chính sự tham gia vào sự nghiệp cách mạng, đập cùng nhịp đập trái tim của
nhân dân, phấn đấu cho một đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hạnh
phúc là sự bảo đảm cho văn nghệ sĩ thực sự được tự do với đầy đủ ý nghĩa tốt đẹp
của từ này.
Văn nghệ cách mạng phải trở thành một mặt trận, có tính chiến đấu
cao, yêu ghét rõ ràng, không được lập lờ hai mặt hoặc đánh tráo khái niệm. Bài
thơ số 132 “Cảm tưởng khi đọc Thiên gia thi” trong Nhật ký trong tù thể
hiện rõ quan điểm của Hồ Chí Minh: “Nay ở trong thơ nên có thép/Nhà thơ cũng phải
biết xung phong”. Tính chiến đấu của văn nghệ chủ yếu thể hiện ở nội dung của
tác phẩm chứ không chỉ ở tuyên ngôn của văn nghệ sĩ. Cũng trong bài nói chuyện
tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ III (1962), Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra
yêu cầu của nhân dân và cũng là của Đảng, của cách mạng về một nền văn nghệ phụng
sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, phụng sự chính nghĩa mà theo Người là ngày càng
phải phong phú về tư tưởng và nghệ thuật, góp phần xứng đáng vào việc xây dựng
một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh: “Quần
chúng đang chờ đợi những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại vẻ vang của
chúng ta, những tác phẩm ca tụng chân thật những con người mới, việc mới chẳng
những để làm gương mẫu cho chúng ta ngày nay, mà còn để giáo dục con cháu ta đời
sau”(4). Văn nghệ không chỉ khen ngợi một chiều mà cần phải mạnh dạn
đấu tranh nghiêm khắc với cái xấu như tham ô, lãng phí, lười biếng, quan liêu…
Có điều khen và chê phải trúng, phải đúng mức, không tô hồng hay bôi đen. Chỉ
có như vậy mới tạo ra được những tác phẩm mà theo Hồ Chí Minh là “có nội dung
chân thật và phong phú, có hình thức trong sáng và vui tươi, khi chưa xem thì muốn
xem, xem rồi thì bổ ích”(5). Để làm được điều đó, văn nghệ sĩ đồng
thời phải là “chiến sĩ nghệ thuật” trên mặt trận tư tưởng, văn hóa của Đảng. Để
làm tròn nhiệm vụ, người “chiến sĩ nghệ thuật” phải có “lập trường vững, tư tưởng
đúng… phải đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết”(6).
Văn nghệ sĩ phải tự vượt lên chính mình bằng việc không ngừng “học tập, trau dồi
tư tưởng, trau dồi nghệ thuật, đi sâu vào quần chúng. Phải đi sát sự thực. Và
trong lúc tiến tới thì chúng ta phải trau dồi đạo đức cách mạng, trước hết là đức
khiêm tốn”(7). Hiểu sâu sắc điểm mạnh, điểm yếu của văn nghệ sĩ, với
sự trân trọng, quý mến, nhiều lần Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn anh chị em phải
học tập chính trị để nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, phải rèn luyện đạo đức cách mạng, đi sâu vào quần chúng, học
ở nhân dân. Bởi vì theo Hồ Chí Minh, quần chúng không chỉ là những người sáng tạo
ra của cải vật chất cho xã hội mà còn là những người sáng tạo ra những câu tục
ngữ, những câu vè, ca dao rất hay, không “trường thiên đại hải” mà vẫn là những
hòn ngọc quý. Để sáng tác văn nghệ, tạo nên những tác phẩm xứng đáng thì phải
trau dồi nghề nghiệp, chớ có lạm dụng tiếng nước ngoài hay viết những câu văn cầu
kỳ rắc rối gây khó hiểu cho nhân dân; học lẫn nhau, học cái hay cái đẹp của văn
nghệ nước ngoài và hơn hết phải “sôi nổi trong tâm hồn một tình yêu say mê đối
với cái thiện, cái mỹ, với hòa bình và nhân loại”(8). Để có những
sáng tác chân thực, văn nghệ sĩ phải luôn sâu sát thực tế sôi động của đất nước,
gắn bó với nhân dân, phải được tổ chức chặt chẽ, đồng lòng, chung sức trong tổ
chức của những người sáng tạo văn học, nghệ thuật, phải có tinh thần tự phê
bình và phê bình. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận ra sứ mệnh cao cả của
văn học, nghệ thuật trong việc vươn lên giải quyết các vấn đề lớn của nhân loại
tức là những vấn đề toàn cầu. Trong “Thư gửi Hội nghị các nhà văn Á - Phi lần
thứ hai (2/1962), Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cây bút phục vụ chính nghĩa trong tay
nhà văn chiến đấu có một lực lượng cực kỳ mạnh mẽ… Nó sẽ làm cho các nhà văn
góp phần xứng đáng trong phong trào chống chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực
dân, đoàn kết các dân tộc để đấu tranh cho độc lập, hòa bình, dân chủ và hạnh
phúc cho cả loài người trên thế giới”(9).
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật là sự vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác- Lê nin về văn hoá, văn nghệ, đặc biệt là quan điểm của V.I. Lê
nin về mối quan hệ khăng khít ví như “một cái bánh xe nhỏ và một cái đinh ốc”
giữa sự nghiệp văn học với sự nghiệp cách mạng của dân tộc do Đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo, về tính chất của văn học, về quan điểm dân tộc, về việc tiếp
thu văn hoá cũ, về việc văn học tham gia vào việc xây dựng nền văn hoá mới…Tuy
nhiên, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật, chúng ta nhận thấy
rõ nét cốt cách, đặc tính không lẫn với ai được, thể hiện tầm cao vĩ đại của tư
tưởng không chỉ qua những lời chỉ dạy giản dị, ân tình, thấm thía, sâu sắc mà
còn qua những tác phẩm văn nghệ và các tác phẩm chính luận bất hủ của Người. Tư
tưởng Hồ Chí Minh cùng với đường lối đúng đắn của Đảng về văn học, nghệ thuật
là nguyên nhân quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định để chúng ta có được những
thành tựu to lớn về văn học, nghệ thuật như những năm qua.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, trong hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, Đảng ta luôn xác định đúng đắn vị trí, vai trò của văn học, nghệ thuật
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong việc xây dựng và phát triển nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát triển
toàn diện. Đảng và Nhà nước đặc biệt chăm lo xây dựng và phát triển đội ngũ văn
nghệ sĩ, tạo điều kiện về cơ chế, chính sách, đầu tư các nguồn lực cho sáng tạo,
nghiên cứu, công bố các tác phẩm, tôn vinh các tác giả, tác phẩm có giá trị về
nhiều mặt thông qua việc trao các giải thưởng cao quý, ưu tiên phát triển văn học,
nghệ thuật các dân tộc thiểu số, văn nghệ sĩ trẻ. Nội dung và phương thức lãnh
đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với văn học, nghệ thuật cũng luôn được
đổi mới, tạo mọi điều kiện thuận lợi để văn học, nghệ thuật phát triển toàn diện,
mạnh mẽ, có nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, thấm nhuần
sâu sắc tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ. Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ
Chí Minh, quán triệt tinh thần Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng,
ngày 24/11/2021, phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng đặt ra yêu cầu “cần phải chú trọng xây dựng và phát triển văn hóa đỉnh
cao, phấn đấu có nhiều tài năng lớn ở các loại hình văn hóa, nghệ thuật, có những
tác phẩm tầm cỡ, phản ánh được sâu sắc hiện thực đổi mới vĩ đại của đất nước,
có ý nghĩa tích cực trong việc xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam hiện
nay”. Làm được điều đó chắc chắn “tiền đồ nghệ thuật ta rất rộng rãi” như Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã tin tưởng trong “Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa
1951”.
NGUYỄN VĂN THĂNG
(Nguồn: VNĐN số 63 – tháng 5,
năm 2023)
(1): Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, H, 2011, tr.88
(2): Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính
trị Quốc gia Sự thật, H, 2011, t.7, tr.246
(3): Hồ Chí Minh:
Sđd, t.5, tr.577
(4): Hồ Chí Minh:
Sđd, t.13, tr.504
(5): Hồ Chí Minh:
Sđd, t.13, tr.504 - 505
(6): Hồ Chí Minh:
Sđd, t.7, tr.246
(7): Hồ Chí Minh:
Sđd, t.10, tr.513
(8): Hồ Chí Minh:
Sđd, t.13, tr.186
(9): Hồ
Chí Minh: Sđd, t.13, tr.339