Những ngày cuối năm, hầu như tất cả chúng tôi ai cũng tất bật với những công việc ở cơ quan, gia đình. Khi nhận được giấy triệu tập tham dự trại sáng tác văn học nghệ thuật (VHNT) với chủ đề: “Đồng Nai nơi hội tụ mạch nguồn văn hoá và phát triển bền vững", nghe cái tên có phần chung chung quá nên lúc đầu tôi hơi đắn đo chưa muốn tham dự, nhưng khi hiểu điểm đến của đợt sáng tác này sẽ chiến khu rừng Sác, vậy là tôi vội vàng sắp xếp mọi công việc để cùng tham gia với hai mươi anh chị em văn nghệ sĩ trong chuyến đi này.
Rừng Sác với tôi là nơi lưu giữ kỉ niệm vui buồn, nhất là những ngày khi Đại tá, Anh hùng lực lượng vũ trang Lê Bá Ước còn sống. Cứ đến ngày 01/9 hằng năm, anh thường dẫn tôi về đám giỗ những đồng đội hi sinh tại chiến khu này.
Xuất phát tại trụ sở Hội VHNT Đồng Nai từ sáng sớm, hơn chín giờ sáng, xe đưa chúng tôi đến Nhơn Trạch. Trước khi đến viếng Đền thờ Liệt sĩ và tượng đài kỉ niệm bộ đội đặc công rừng Sác anh hùng, hướng dẫn viên đưa chúng tôi đến thăm ngôi đền cổ trên đồi cao, có nhiều cây cổ thụ che mát. Đền thờ lợp mái ngói đơn sơ. Nơi đây, ghi dấu ấn đầu tiên của những bậc tiền nhân đã từng bước về lập ấp, lập làng để tạo nên khu Rừng Sác ngày nay.
Công việc đầu tiên của đoàn văn nghệ sĩ chúng tôi khi đến Nhơn Trạch là thắp nhang tại Đền thờ Liệt sĩ, tưởng nhớ hương hồn các anh hùng liệt sĩ, các Mẹ Việt Nam anh hùng đã nằm xuống trên mảnh đất Nhơn Trạch. Đền thờ là biểu tượng truyền thống cách mạng vẻ vang và tình cảm thủy chung, son sắc của người dân Nhơn Trạch.
Nhạc sĩ Khánh Hoà - nguyên Chủ tịch Hội VHNT Đồng Nai, được giao phụ trách trong chuyến đi thực tế sáng tác lần này cùng đội ngũ văn nghệ sĩ dâng hương tại Đền thờ Liệt sĩ. Vòng hoa mang dòng chữ “Đời đời nhớ ơn các anh hùng liệt sĩ". Sau Lễ thỉnh hương dâng hoa, các thành viên trong đoàn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với những người con ưu tú không tiếc máu xương, chiến đấu anh dũng, hi sinh cho Tổ quốc.
Cũng trong sáng ngày 9.1.2025, đoàn đã tới tham quan địa đạo Nhơn Trạch. Nơi đây là căn cứ huyện ủy, được xây dựng trong thời kì chống Mỹ, cứu nước, tồn tại hơn một thập kỉ (1962-1975), là nơi trú ẩn vững chắc của các cơ quan lãnh đạo, chống lại chiến dịch bình định cấp tốc của địch năm 1974. Cũng từ đó, quân và dân ta tạo thêm thế lực mới trên chiến trường Nhơn Trạch. Hệ thống hầm địa đạo góp phần làm nên những chiến công vang dội của quân và dân ta trong nhiều trận đánh.
Văn nghệ sĩ Đồng Nai trong một lần tác nghiệp tại rừng Sác (Nhơn Trạch) - Ảnh: Hạ Nguyên
Tôi cũng như một số văn nghệ sĩ đã từng đến đây nhiều lần, mỗi lần đến lại có thêm cảm xúc, những kỉ niệm đẹp về năm tháng được sinh hoạt cùng chi bộ và cùng có những chuyến đi sáng tác với Anh hùng Lê Bá Ước, nguyên Chỉ huy trưởng Đoàn 10, bộ đội đặc công rừng Sác năm xưa. Lúc dâng hương, tôi đứng trước di ảnh anh Bảy, nói lên những điều tâm nguyện. Khi di chuyển dưới địa đạo hay bước vào khu trưng bày những kỉ vật, chúng tôi dừng khá lâu trước di ảnh, cụm biểu tượng mô phỏng các anh hùng, cho chúng tôi hình dung quân, dân Nhơn Trạch và cán bộ, chiến sĩ Đoàn 10, bộ đội đặc công rừng Sác năm xưa.
Ngày 15.4.1966, Bộ Chỉ huy Miền thành lập tại Đặc khu quân sự rừng Sác với mật danh T10 (Trung đoàn 10 - Đặc công rừng Sác), có nhiệm vụ thọc sâu áp sát, bám trụ bằng mọi giá, chiếm giữ khu rừng Sác để tiến công vào cụm kho, bến cảng, cơ quan đầu não, sào huyệt Mĩ, nguỵ. Đây là đơn vị hoạt động độc lập. Để đảm bảo chiến đấu và nhu cầu sinh hoạt của bộ đội, Ban chỉ huy Đoàn 10 chỉ đạo dựa hẳn vào dân, nhờ dân che chở, đùm bọc, giúp đỡ. Những nhu yếu phẩm gạo, đường, thuốc… đều do các gia đình cơ sở bí mật chuyển vào căn cứ.
Rừng Sác là khu rừng ngập mặn, quanh năm không có nước ngọt. Vào mùa khô, cán bộ, chiến sĩ phải chèo ghe ban đêm, luồn lách tránh biệt kích, máy bay để vào các ấp chiến lược chở từng can nước giếng. Về sau, địch biết quy luật này nên đã phục kích án ngữ các giếng, bờ ao. Nhiều chiến sĩ đã phải đổ máu để có thùng nước ngọt. Những lúc căng thẳng nhất không còn cách nào bám đất liền, đơn vị phát huy sáng kiến chưng cất nước mặn thành nước ngọt. Với cách này, mỗi ngày đơn vị có khoảng từ 8 đến 10 tiếng, đủ nước ngọt cho 1 trung đội sinh hoạt trong một ngày, giải quyết đáng kể nhu cầu nước ngọt cho bộ đội. Sáng kiến này quan trọng nhất là phải đảm bảo bí mật, không để khói bốc lên, địch sẽ phát hiện. Nếu chẳng may bị phát hiện, địch sẽ dập pháo xuống đội hình ta.
Tại căn cứ, có những thời điểm (1969 - 1971) địch phong tỏa gắt gao đường tiếp tế, đơn vị phải đi thu mua gạo từ xa nhưng vẫn ngụy trang đưa gạo vào căn cứ. Cán bộ, chiến sĩ phải ăn cháo, rau thay cơm nhưng vẫn kiên cường bám trụ để chiến đấu với tâm nguyện “một tấc không đi, một li không rời trận địa".
Điều kiện chiến trường rừng Sác thiếu thốn mọi bề, bị thương vong trong chiến đấu là điều khó tránh khỏi. Để cứu sống các chiến sĩ bị thương trong hoàn cảnh ấy, các y, bác sĩ phải khắc phục khó khăn gấp bội phần, vượt qua gian khổ, chủ động, sáng tạo, tìm mọi phương cách để hoàn thành nhiệm vụ. Không có xuồng, ghe chuyển thương binh, chiến sĩ quân y tạo ra những chiếc xuồng bằng ni lông, có túi phao nổi xung quanh, tận dụng nước thủy triều để đưa thương binh về hậu cứ.
Bộ đội đặc công rừng Sác đã làm nên những trận đánh khiến quân địch phải khiếp sợ, nhất là trận đánh kho xăng Nhà Bè đi vào lịch sử. Mô hình trận đánh kho xăng Nhà Bè được tái hiện tại Khu di tích để người xem cảm nhận về chiến công hiển hách. Thực tế, kho xăng rộng 14 ha, có 72 bồn xăng dầu, gần một nửa số bồn này có dung tích chứa hơn 10 triệu lít. Do tầm quan trọng đặc biệt, kho được bảo vệ với 12 lớp rào bao bọc, tường cao 3,5 m. Giữa từng lớp rào có gài mìn và thường xuyên có các toán lính tuần tiễu đêm ngày để chống lực lượng của ta đột nhập. Ngoài ra, địch bố trí chó nghiệp vụ, hệ thống đèn pha, tháp canh, đường tuần tra...
Vào lúc 0 giờ 35 phút ngày 3.12.1973, các chiến sĩ đặc công rừng Sác được lệnh bí mật đột nhập vào khu vực kho, phân công nhau đặt mìn vào cạnh các bồn chứa xăng, rồi sau đó rút ra an toàn. Đứng giờ hẹn, nhiều tiếng nổ lớn vang lên sau đó, kho xăng Nhà Bè bùng cháy dữ dội. Vụ cháy kéo dài hơn 12 ngày đêm, gây thiệt hại khoảng 12 triệu USD của đế quốc Mĩ thời điểm đó.
Chiến khu rừng Sác có vị trí chiến lược, lại có địa hình rừng rậm bạt ngàn, sông rạch chằng chịt. Đây cũng là lợi thế để ta tổ chức việc giấu ém quân và đánh, tiêu diệt sinh lực địch. Tuy nhiên, bộ đội ta không chỉ chiến đấu với kẻ địch mà còn phải chiến đấu với kẻ thù ẩn trong dòng nước, đó là cá sấu. Chính tại căn cứ này, đã có 3 đồng chí bị hi sinh vì cá sấu tấn công.
Trong chín năm vừa cứu chữa thương binh, vừa chiến đấu tự bảo vệ, có 4 bác sĩ và 2 y sĩ đã anh dũng hi sinh ngay tại trận địa. Các y, bác sĩ đã góp công sức vào việc duy trì sức chiến đấu bền bỉ, dẻo dai của Trung đoàn 10 đặc công rừng Sác, cứu chữa gần 500 thương binh.
Hình ảnh các chiến sĩ vừa đánh địch vừa phải chiến đấu với những con cá sấu hung dữ được mô phỏng lại tại Khu di tích cho người xem những cảm nhận xúc động về tinh thần quả cảm, gan dạ, anh dũng của bộ đội đặc công.
Căn cứ chiến khu rừng Sác là căn cứ nổi. Nơi đây được hình thành trên vùng châu thổ rộng lớn của các cửa sông Đồng Nai, sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ. Tổng diện tích khu rừng ngập mặn Cần Giờ khoảng 75.740 ha. Căn cứ nằm sát nách Sài Gòn - Gia Định về hướng Đông Nam, nơi có con sông Lòng Tàu là “cổ họng" vận chuyển, tiếp tế hậu cần cho bộ máy chiến tranh khổng lồ với hàng triệu quân Mĩ, nguỵ.
Để bảo vệ sông Lòng Tàu, Mĩ tuyên bố “làm cỏ rừng Sác" bằng “mưa bom bão đạn". Ngoài trận đánh kho xăng Nhà Bè, trận đánh tàu Victoria vào tháng 8.1966 cũng gây thiệt hại, hoang mang không kém. Thời điểm này, Mĩ đưa tàu Victoria chở khoảng 100 xe tăng, thiết giáp; 2 máy bay trực thăng, 20 tấn lương thực thực phẩm cung cấp cho một sư đoàn Mĩ, chuẩn bị cho chiến dịch mùa khô lần thứ nhất 1966 -1967. Dưới sông, tàu địch tuần tiễu liên tục, trên trời máy bay quần thảo; trên bộ biệt kích phục dày đặc. Các chiến sĩ đặc công rừng Sác phải ngâm mình dưới nước, chôn mình ngụy trang dưới bùn. Sau hơn một tháng chuẩn bị và lên kế hoạch, sáng 23.8, khi tàu Victoria đi qua, 2 quả thủy lôi đã gây nổ tung con tàu với trọng tải hơn 10 nghìn tấn cùng khí giới chìm xuống lòng sông.
Chín năm chiến đấu (1966-1975), Đoàn 10 rừng Sác kiên cường bám trụ, luôn chủ động tiến công, đánh sâu vào bến cảng, kho tàng hậu cứ địch theo mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy Miền, xây dựng phong trào cách mạng địa phương, hướng dẫn nhân dân các ấp chiến lược đấu tranh với địch, xây dựng cơ sở cách mạng trong vùng địch tạm chiếm, phát triển chiến tranh du kích, phá thế kìm kẹp của địch, góp phần vào thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của toàn dân tộc.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên, Đoàn 10 đặc công rừng Sác đã vượt lên chính mình, biết dựa vào dân xây dựng “thế trận lòng dân", xây dựng tư tưởng kiên định vững vàng, ý chí quyết tâm chiến đấu sẵn sàng xả thân vì độc lập, tự do của Tổ quốc, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng để chiến thắng kẻ thù, truyền thống của đơn vị: “Rừng Sác là nhà, bến cảng, kho tàng là trận địa, sông Lòng Tàu là quyết chiến điểm. Có lệnh là đánh, hoàn cảnh nào cũng đánh, đã đánh là thắng". Truyền thống ấy như bài ca, theo bộ đội đặc công xung trận và làm nên những chiến tích oai hùng.
***
Rời nhà trưng bày khu tưởng niệm bộ đội đặc công rừng Sác, đoàn chúng tôi tiếp tục ra bến sông, lên hai chiếc xuồng máy để thăm lại một phần các căn cứ, địa điểm ém quân và nơi bộ đội đặc công làm lễ truy điệu sống trước khi xuất kích.
Gần một giờ ngồi trên xuồng máy ngắm cảnh sông nước mênh mông, những rừng đước, rừng tràm nối tiếp nhau ở hai phía bờ sông yên ả, có phần trầm mặc, huyền bí. Trong chúng tôi, ít ai có thể phân biệt được đâu là cây đước, đâu là tràm. Nhìn chung, các loại cây rừng ngập mặn tương đối giống nhau về màu lá và hình dáng. Tuy nhiên, người có kinh nghiệm nói rằng để giữ cho bờ của những dòng sông ngập mặn có dòng nước chảy xiết, trước hết cây mắm phải vươn ra, mọc lên bám trụ. Cây đước theo sau cây mắm với bộ rễ sum suê cùng vươn ra theo mọc thành rừng và theo năm tháng lớn lên cùng gìn giữ đất. Người dân nơi đây có câu: “cây mắm đi trước, cây đước đi sau", như vậy du khách chưa rành cây cối, cứ nhìn vào cây, đập vào mắt là cây mắm và cây đước, sau đó mới đến cây tràm, ba loại cây này dàn thành thế trận cắm rễ sâu xuống lòng đất tạo thành rừng, ngăn bờ sạt lở. Nhìn rễ rừng cây, tôi nhớ anh Bảy Ước có lần đưa mu bàn tay gầy guộc, hằn rõ những đường gân máu chằng chịt của mình, nói: “Cậu nhìn đôi tay tôi này, nó giống rễ của cây đước lắm đó…".
Xuồng đưa đi qua hết các nhánh sông trong khi chúng tôi không biết mình đang dạo dòng nào trong bốn sông lớn, nhỏ: Thị Vải, Đồng Tranh, Lòng Tàu, Soài Rạp bao quanh vùng chiến khu rừng Sác này. Tôi quay người hỏi nhạc sĩ Cao Hồng Sơn và nhà thơ Lê Liên ngồi phía sau, hai anh đã từng dạo trên những khúc sông này nhiều lần mỗi dịp đi thực tế sáng tác và đã từng cho ra nhiều bản nhạc, những bài thơ đáng ghi nhớ. Các anh hướng tầm mắt nhìn dòng sông, ngẫm nghĩ và nhớ ra rồi reo lên: “Chúng ta đang đi trên sông Đồng Tranh". Chỉ cần ra đến sông lớn rồi rẽ vào một nhánh sông hẹp nữa sẽ là nơi đóng quân chính của Đoàn 10 đặc công rừng Sác năm xưa.
Đúng thế, xuồng rẽ vào nhánh sông hẹp. Nơi đây, ngoài những loài cây rừng ngập mặn, có nhiều loại cây lạ, mọc um tùm chòi hẳn ra phía dòng chảy nhánh sông, cảnh vật nơi đây càng huyền bí, thơ mộng. Có lẽ vì sống nhiều trong cảnh sông nước gian khổ, hi sinh nên tình đồng chí đồng đội, lòng nhân ái trong con người anh hùng, Đoàn trưởng Đoàn 10 rừng Sác Lê Bá Ước đã viết nên tập thơ “Trái tim người lính"? Tập thơ của ông đã thành di sản cho hôm nay và mai sau. Ngay như thế hệ chúng tôi hôm nay đang tìm đến thăm nơi các anh đã từng sống gắn bó, làm nên những chiến tích. Xuồng dừng lại ngay bến xưa, nơi Đoàn 10 đặc công rừng Sác thường tổ chức lễ “Truy điệu sống trước khi xuất phát" cho những người ra đi làm nhiệm vụ với tinh thần: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Chúng tôi thắp nén nhang, cúi đầu tưởng nhớ cán bộ, chiến sĩ hi sinh trên bến sông chưa được đặt tên. Mỗi người ghi chép, chụp hình làm tư liệu cho chuyến đi thực tế sáng tác hết sức ý nghĩa.
Chiến khu rừng Sác năm xưa giờ đây đã trở thành di tích lịch sử, con đường rừng Sác xưa nằm giữa cánh rừng đước và tràm xanh, nay đã trở thành con đường du lịch trên quê hương cách mạng Cần Giờ. Tôi mãi tin những chiến công của Đoàn 10 đặc công rừng Sác hay là Trung đoàn 10 bộ đội đặc công sẽ mãi khắc sâu trong tâm trí thế hệ hôm nay và mai sau.
Được biết, năm 2004, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia cho Căn cứ rừng Sác. Trước đó, ngày 21-1-2000, Unesco đã công nhận rừng Sác là Khu dự trữ sinh quyển thế giới Cần Giờ với hệ động thực vật đa dạng, độc đáo điển hình của vùng ngập mặn Cần Giờ với diện tích 75.740 ha.
Để khám phá thật chi tiết những chiến công vang dội của bộ đội đặc công, quân, dân nơi đây và khu di tích lịch sử cấp quốc gia này, có lẽ cần nhiều thời gian. Đoàn chúng tôi tự biết sức mình và thời gian không cho phép nên phải trở về hoàn thiện các tác phẩm của mình như một nghĩa cử “Đền ơn đáp nghĩa" những người con ưu tú của chiến khu rừng Sác năm xưa. Tôi kết thúc bài viết bằng những câu thơ trong bài “Một thời rừng Sác" của Đại tá, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Lê Bá Ước:
“Trở về Rừng Sác quê tôi
Mênh mông sông nước bồi hồi nhớ thương
Bao nhiêu bom đạn chiến trường
Bao nhiêu kỉ niệm tình thương mặn nồng"
H.Đ.N
Nguồn: Văn nghệ Đồng Nai số 90 (Tháng 8 năm 2025)