Ngay từ khi mới ra đời, Truyện Kiều đã là nguồn cảm hứng bất tận, là đề tài hấp dẫn, tâm đắc cho giới tao nhân mặc khách ngâm vịnh, xướng họa... và được giới này truyền bá sâu, rộng, nó nhanh chóng trở thành lời ăn tiếng nói và đi vào khúc ca, điệu lý câu hò dân gian của những cộng đồng dân cư Việt. Hơn 200 năm qua, người ta đã không ngừng sáng tạo ra nhiều loại hình văn hóa để thưởng thức Truyện Kiều, ta gọi chung đó là Văn hóa Kiều, với những: vịnh Kiều, bình Kiều, lẩy Kiều, đối Kiều, tập Kiều, đố Kiều, giảng Kiều, Nhại Kiều, ngâm/ru Kiều, bói Kiều, xướng họa Kiều, hội họa Kiều, hát trò Kiều, giai thoại Kiều... cho đến các loại hình sân khấu, điện ảnh Kiều.
Trong Văn hóa Kiều thì lẩy Kiều, phỏng Kiều, vịnh Kiều và tập Kiều (“tập" ở đây được hiểu theo nghĩa là “tập hợp") là những loại hình phổ biến và tiêu biểu hơn cả. Nó hiện diện trong cuộc sống hàng ngày của mọi tầng, giới: từ văn nói, văn viết đến văn chính luận và có thể cả trong thông điệp ngoại giao của các chính khách.
Tuy nhiên, hiểu thế nào là vịnh Kiều, phỏng Kiều, nhất là lẩy Kiều và tập Kiều (có người cho rằng, lẩy Kiều và tập Kiều chỉ là một?) trong tầng lớp bình dân, ngay cả trong tầng lớp trí thức, học giả lâu nay vẫn chưa có sự thống nhất và rạch ròi giữa một số loại hình. Với sự hiểu biết còn hạn chế, trong bài viết này, tôi cũng mạnh dạn góp thêm một góc nhìn của mình về vấn đề dẫu quen mà còn lạ này. Tác giả mong nhận được ý kiến trao đổi từ quý vị độc giả.
Từ điển Tiếng Việt phổ thông của Viện Ngôn ngữ học (Nhà xuất bản Phương Đông tái bản lần thứ nhất, tháng 8/2006) định nghĩa:
“Lẩy": “tách ra, lấy rời ra từng cái những vật dính liền thành cụm. Ví dụ: cầm bắp ngô lẩy từng hạt". Ở nghĩa này, Từ điển chuyên ngành mở trực tuyến (Tra từ Soha) cũng định nghĩa giống hệt như vừa dẫn, ngoài ra còn mở rộng thêm về lĩnh vực văn hóa xã hội: “chọn rút ra một vài câu, đoạn trong một tác phẩm thơ, ca để phỏng theo mà diễn đạt ý. Ví dụ: lẩy Kiều, lẩy một câu chèo cổ".
“Phỏng": “dựa theo cái đã có mà làm giống hoặc gần giống như thế. Ví dụ: bài hát phỏng theo một điệu dân ca, phỏng theo đó mà vẽ".
“Vịnh": “làm thơ về phong cảnh hoặc sự vật trước mắt (một lối làm thơ phổ biến thời trước). Ví dụ: vịnh phong cảnh, bài thơ vịnh cái quạt; Rút trâm sẵn giắt mái đầu/ Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần - Truyện Kiều".
“Tập hợp": “lấy từ nhiều chỗ khác nhau, gộp chung lại để làm việc gì. Ví dụ: tập hợp tài liệu để nghiên cứu, bản báo cáo tập hợp đầy đủ tình hình".
Từ các định nghĩa trên, qua tham khảo những bài viết có liên quan của các nhà nghiên cứu, Kiều học và theo thông lệ, quy ước bất thành văn lưu truyền trong dân gian, ta có thể hiểu các khái niệm trên như sau:
1. Lẩy Kiều
Lẩy Kiều là chọn, rút ra nguyên văn một vài câu (đoạn - ít dùng) trong Truyện Kiều, thường là một câu lục và một câu bát liền kề để minh họa cho một thông điệp, một nội dung cần chuyển tải hoặc để phỏng theo đó mà diễn đạt ý trong một bài viết, bài nói chuyện hoặc trong giao tiếp. Sau đây là bốn ví dụ tiêu biểu:
- Từ ngày 16-19/11/2000, Tổng thống Mỹ Bill Clinton thăm chính thức nước ta, trong bài diễn văn, ông đã lẩy Kiều: “Sen tàn cúc lại nở hoa/ Sầu dài ngày ngắn, đông đà sang xuân" (câu 1795 & 1796).
- Chuyến thăm chính thức tới Mỹ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ ngày 6-10/7/2015. Tối 7/7, Phó Tổng thống Mỹ Joseph Biden tiếp Tổng Bí thư tại trụ sở Bộ Ngoại giao Mỹ, trong bài diễn văn chào mừng, ông đã lẩy Kiều: “Trời còn để có hôm nay/ Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời" (câu 3121 & 3122).
- Chuyến thăm chính thức nước ta từ ngày 23-25/5/2016 của Tổng thống Mỹ Barack Obama. Trưa 24/5, phát biểu tại Trung tâm Hội nghị quốc gia Mỹ Đình, trước gần 2000 sinh viên, trí thức và doanh nhân trẻ, Tổng thống Barack Obama đã lẩy Kiều: “Rằng: Trăm năm cũng từ đây/ Của tin gọi một chút này làm ghi" (câu 355 & 356).
- Trong chuyến thăm cấp nhà nước Việt Nam của Tổng thống Mỹ Joseph Biden, trưa ngày 11/09/2023, tại bữa tiệc chiêu đãi của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng chủ trì, ngài Joseph Biden đã lẩy Kiều: “Vinh hoa bõ lúc phong trần/ Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày" (câu 2287 & 2288).
Ngoài lẩy Kiều, người ta còn làm thơ lẩy Kiều. Đó là lựa chọn nguyên văn những câu Kiều có vần và ý, tứ tương đối phù hợp với nhau (không bắt buộc theo thứ tự xuất hiện trong Truyện Kiều) để chắp lại thành bài thơ lục bát đề vịnh hay tả cảnh, tả tình. Hình thức này là một lối văn chơi, tuy nhiên nó cũng không dễ ngay cả đối với giới tao nhân mặc khách (còn khó hơn tập Kiều - trình bày ở phần sau), vì thế nó không phổ biến.
2. Phỏng Kiều
Phỏng Kiều là trích dẫn không nguyên văn một vài câu Kiều, tức là thay hoặc thêm (hoặc cả hai) một số từ (có khi thay mới hoàn toàn câu lục hay câu bát) cho phù hợp với bối cảnh, văn cảnh, ý đồ của tác giả để minh họa cho một thông điệp, một nội dung cần chuyển tải hoặc để phỏng theo đó mà diễn đạt ý trong một bài viết, bài nói chuyện hoặc trong giao tiếp.
Trong các bài diễn văn, bài nói chuyện hay giao tiếp, Bác Hồ của chúng ta thường phỏng Kiều. Sau đây là ba ví dụ tiêu biểu:
- Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ Liên hiệp kháng chiến - ngày 02/02/1947 (12 tháng Giêng năm Đinh Hợi) ở Quốc Oai, Sơn Tây, trước khi vào họp chính thức, Bác đề nghị: ai có thơ xuân, câu đối Tết xin đọc làm đề cho “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi; Thống nhất, độc lập nhất định thành công" (1). Suy nghĩ một lát, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Anh đứng dậy ứng khẩu câu đối (2). Nghe xong, Bác phỏng đọc câu Kiều 489 & 490, khen: “Rằng hay thì thật là hay/ Khẩn trương kháng chiến hẹn ngày bình sau" (thay mới hoàn toàn câu bát). Nguyên tác Truyện Kiều: “Rằng hay thì thật là hay/ Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào".
- Nói chuyện với bà con xã Kim Liên (nay là Nam Liên), trong chuyến về thăm quê sau 50 năm xa cách, tháng 6/1957, Bác đã phỏng đọc hai câu Kiều: “Quê hương nghĩa trọng tình cao/ Năm mươi năm ấy biết bao nhiêu tình" (thay mới hoàn toàn câu lục; thay “mười lăm" bằng “năm mươi" ở câu bát). Nguyên tác câu 3069 & 3070 trong Truyện Kiều: “Những là rày ước mai ao/ Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình".
- Tháng 7/2011, khi chúc mừng bác Nguyễn Sinh Hùng là người kế nhiệm mình làm Chủ tịch Quốc hội Khóa XII, bác Nguyễn Phú Trọng đã lẩy Kiều: “Chén vui nhớ bữa hôm nay/ Chén mừng xin đợi ngày rày 5 năm sau" (thêm chữ số 5. Nguyên văn câu 1517 & 1518 trong Truyện Kiều là: “Chén đưa nhớ bữa hôm nay/ Chén mừng xin đợi ngày rày năm sau").
3. Vịnh Kiều
Vịnh Kiều là lấy nhân vật, sự kiện, cảnh vật trong Truyện Kiều làm đề tài để làm thơ, qua đó tác giả giãi bày tâm sự hoặc nêu lên quan điểm, chính kiến đối với một vấn đề chính trị, văn hóa, xã hội nào đó.
Ta có thể liên hệ bài thơ Vịnh cái quạt của Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương, bài Vịnh tiến sĩ giấy của cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến. Sau đây là bốn ví dụ tiêu biểu:
KIỀU BÁN MÌNH
(Tác giả: Nguyễn Khuyến)
Thằng bán tơ kia giở giói ra,
Làm cho bận đến cụ Viên già.
Muốn êm phải biện ba trăm lạng,
Khéo xếp nên liều một chiếc thoa.
Nổi tiếng mượn màu son phấn mụ,
Đem thân chuộc lấy tội tình cha.
Có tiền việc ấy mà xong nhỉ,
Đời trước làm quan cũng thế a?
Xuất xứ của bài thơ:
Tổng đốc Hưng Yên là Lê Hoan từng bị giới sĩ phu Bắc Hà và nhân dân căm ghét vì đã đưa quân đi đánh cụ Đề Thám - lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Để xóa đi điều tiếng xấu ấy đồng thời làm dịu lòng dân, năm 1905 ông ta đã tổ chức một cuộc thi vịnh Kiều, mời cụ Tam nguyên Yên Đổ làm chủ khảo. Nguyễn Khuyến ở vào tình thế không thể từ chối, đành phải nhận lời, nhưng thể hiện sự khó chịu trong bài thơ. “Thằng bán tơ kia" - Cụ ám chỉ Lê Hoan, đã giở giói ra việc thi, làm bận bịu đến “cụ Viên già" - ám chỉ Cụ. Đó là lí do để Nguyễn Khuyến viết nên bài thơ Kiều bán mình với một thái độ châm biếm sâu cay.
MÔ TÍP THÚY VÂN
(Tác giả: Vương Trọng)
Người đầy đặn, má bầu bầu bánh đúc
Không thích đàn, chả để ý gì thơ
Đặt mình xuống chẳng biết chi trời đất
Ngáy thường nhiều hơn những giấc mơ.
Nhà có việc, coi như người ngoài cuộc
Vẫn ăn no, ngủ kỹ như không
Cần chi hẹn hò, cần chi thề thốt
Chẳng yêu đương cũng lấy được chồng...
Ta lạc lõng giữa cuộc đời trần tục
Thi ca ơi, ngươi phù phiếm vô ngần
Quanh ngày tháng phố phường ta gặp
Vắng Thuý Kiều và chen chúc Thuý Vân!
HỒ TÔN HIẾN
(Tác giả: Nhật Hồng Nguyễn Thanh Vân)
Tổng Đốc vua phong chức trọng thần,
Ấy Hồ Tôn Hiến đủ kinh luân
Dùng mưu núp yếm lừa nương tử,
Bày kế dựng cờ bịp tướng quân
Chuốc rượu nài hoa trơ trẽn mặt,
Nghe đàn giỡn liễu nhuốc nhơ thân
Quan trên trông xuống, người mai mỉa,
Tổng Đốc vua phong chức trọng thần.
HOẠN THƯ
(Tác giả: Phạm Kiều Bắc)
Khôn ngoan rất mực khó ai ngờ
Trắng án trước tòa, thực tưởng mơ!
Ý ngọc thấu tình xoay thiện chí
Lời vàng đạt ý chuyển thiên cơ
Lo điều mật kế khi hành xử
Liệu biện câu hùng lúc thất cơ
Hoạn nữ mưu sâu, giàu trí tuệ
Vô song, vạn kiếp chẳng phai mờ!
4. Tập Kiều
Tập Kiều là một lối văn chơi, một thú chơi tao nhã và trí tuệ, có tính chất tài tử.
Tập Kiều là lựa chọn những câu thơ trong Truyện Kiều có vần và ý, tứ tương đối phù hợp với nhau (không bắt buộc theo thứ tự xuất hiện trong Truyện Kiều), chắp lại thành bài thơ, thường là lục bát, để đề vịnh hay tả cảnh, tả tình. Tác giả có thể sáng tác thêm một số ít câu để cho ý, tứ của bài thơ được tròn. Việc lựa chọn các câu Kiều yêu cầu không được liền kề; câu bát có thể bớt đi hai chữ cuối để thành câu lục, nhưng câu lục thì không được thêm hai chữ cuối để thành câu bát; có thể thay đổi vài từ trong các câu Kiều được tập để cho ý, tứ thơ được tập trung.
Việc tìm chọn những câu thơ phù hợp trong tổng số 3254 câu Kiều là việc làm mất nhiều thời gian, đòi hỏi tác giả phải kiên trì, khá thuộc Kiều, hiểu Kiều và có năng khiếu nhất định về văn, thơ. Vì vậy, số lượng tác giả và tác phẩm về loại hình này khá khiêm tốn so với vịnh Kiều. Sau đây là 2 ví dụ, tác giả của bài viết có chú thích số thứ tự của câu Kiều bằng chữ nhỏ dạng số mũ ở chữ cuối của mỗi câu được tập (nguyên văn hoặc có sửa chữa).
VÔ ĐỀ (3)
(Tác giả: Nguyễn Cảnh Lâm)
Trời tây bảng lảng bóng vàng,¹⁰⁸⁵
Bây giờ kim mã, ngọc đường với ai?²⁸⁷⁰
Cúi đầu nép xuống hiên mai,¹⁸²²
Còn toan mở mặt với người cho qua.³¹⁵²
Trông người lại ngẫm đến ta,⁴¹⁷
Làm ra con ở chúa nhà, đôi nơi.¹⁸¹⁴
Người yêu, ta xấu với người,³¹⁵⁷
Đỉnh chung hồ dễ ăn ngồi cho yên.²⁹³⁸
Phẩm tiên rơi đến tay hèn,⁷⁸⁹
Làm cho bùn lại vẩn lên mấy lần.²¹⁵⁶
Đục trong thân cũng là thân,¹⁴²³
Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi.¹²⁷⁴
Tẻ vui cũng một kiếp người,³²⁰⁹
Thân đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru!³⁴⁶
Thân lươn bao quản lấm đầu,¹¹⁴⁷
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi!²⁴⁶⁸
Phải điều ăn xổi ở thì,⁵⁰⁹
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?²²²⁰
Lại còn dơ dáng dại hình,¹³⁵⁷
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.²⁶⁶²
Xuất xứ của bài thơ:
Cụ Tú tài Nguyễn Cảnh Lâm ở làng Phật Tích, Tiên Du, Bắc Ninh - tham gia Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, bị Thực dân Pháp kết án đày ra Côn Đảo. Trong số thơ, văn cổ động Phong trào Duy Tân của Cụ, có bài thơ tập Kiều trên nhằm chỉ trích bọn tay sai xu nịnh chính quyền thực dân.
THÂN PHẬN NÀNG KIỀU
(Tác giả: Hoàng Hiếu Nghĩa)
Thề hoa chưa ráo chén vàng,⁷⁰¹
Bán mình, nàng vội tìm đàng cứu cha.²⁷⁸⁰
Bấy chầy gió táp mưa sa,³⁰⁹⁹
Cái thân liệu những từ nhà liệu đi.²¹⁶⁰
Khi Vô Tích, khi Lâm Tri,²²⁹¹
Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần.²⁶⁶⁸
Đùng đùng gió dục mây vần,⁹⁰⁷
Hơi tàn được thấy gốc phần là may.²⁵⁸⁸
Chút thân quằn quại vũng lầy,¹⁹⁵⁹
Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh.²¹⁸
Đã cam chịu bạc với tình,¹⁹⁴⁵
Biết duyên mình, biết phận mình, thế thôi!²²⁰
Trải bao gió dập sóng vùi,²⁶⁰⁵
Nghĩ thân mà lại ngậm ngùi cho thân.¹¹⁹⁰
Nàng đà tính hết xa gần,¹⁴⁴¹
Bắt phong trần, phải phong trần như ai.¹¹⁹²
Chữ tài liền với chữ tai,³²⁴⁸
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.⁴¹⁶
Trông người lại ngẫm đến ta,⁴¹⁷
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài!³²⁵⁰
Như vậy, nếu lẩy Kiều và phỏng Kiều là loại hình văn hóa bình dân và phổ biến thì sáng tác thơ vịnh Kiều, thơ tập Kiều và cả thơ lẩy Kiều thường là công việc của những người yêu thích Truyện Kiều và có khả năng sáng tác thơ, văn.
Có thể nói, vai trò của Truyện Kiều đối với người Việt còn hơn cả Kinh Thi - một hợp tuyển thơ ca dân gian, được coi như kinh điển văn hóa của người Trung Hoa, do Khổng Tử san định, với câu nói nổi tiếng “Bất học Thi vô dĩ ngôn" (Không học Kinh Thi, không biết lấy gì để nói) - đối với người Trung Hoa.
Có một giai thoại được lưu truyền bao đời ở xứ Nghệ, rằng: Thời gian Nguyễn Du sống ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh (1796 - 1802), cụ thường vừa đung đưa võng tre vừa suy nghĩ sáng tác Truyện Kiều. Khi cụ viết xong Truyện Kiều, tiếng lành đồn xa, người ta đọc thấy hay quá, liền đổ xô sao chép, đến nỗi trong 3 năm liền ở xứ Nghệ và các tỉnh lân cận đã xảy ra tình trạng khan hiếm giấy, mực.
Không ai có thể thẩm định được có bao nhiêu phần trăm sự thật trong giai thoại này, nhưng nó cho ta thấy một thực tế là Truyện Kiều đã thực sự đi vào cuộc sống của người dân Việt, bởi nó “là quyển bách khoa toàn thư của một vạn tâm hồn" (4). Truyện Kiều gần gũi, thân thuộc và bình dị như dân ca, ca dao, thành ngữ, tục ngữ vậy; nó sẽ trường tồn trong tâm thức của dân tộc ta.
Lẩy Kiều, phỏng Kiều, vịnh Kiều và tập Kiều đã làm phong phú thêm, giàu có thêm đời sống văn hóa, tinh thần của dân tộc ta; nó góp phần giữ gìn, kế thừa và phát triển Văn hóa Kiều độc đáo, đặc sắc, “vô tiền khoáng hậu" và Truyện Kiều - một quyển kinh chung của cả dân tộc - viên ngọc quý của nền văn hóa, văn chương và ngôn ngữ Việt.
N.V.T
- - - - - - - - - - - - -
1. Thư chúc tết Đinh Hợi của Bác (theo bài Tết kháng chiến đầu tiên của Bác - Báo Tuổi trẻ Online, 29/01/2008).
2. Câu đối của Bộ trưởng Phan Anh: “Cha ông hương khói lạnh, con cháu cỗ bàn suông; khắp ba kỳ còn nếm nỗi gian truân, buồn tết nhất càng căm thù quân cướp nước/ Tổ quốc bờ cõi yên, non sông Nam Bắc hợp; mấy mươi triệu đồng bào thề quyết thắng, bước vinh quang ta sẽ hẹn lúc về nhà".
3. Bài thơ không có tên, tác giả bài viết tự đặt.
4. Phan Ngọc - Nguyễn Du nhà phân tích tâm lí - Sách 200 năm nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều, Hồng Nhạn
Nguồn: Văn nghệ Đồng Nai số 85 (Tháng 3 năm 2025)