Mai Phương
(Nguồn: VNĐN số 12 – tháng 03 & 04 năm
2016)
Văn hóa và du lịch có mối quan hệ khá
khăng khít, luôn tác động qua lại trong quá trình phát triển. Ảnh hưởng của văn
hóa đối với du lịch luôn có hai chiều tích cực và tiêu cực.
Với
54 cộng đồng dân tộc trải dài khắp đất nước, nền văn hóa Việt Nam rất đa dạng,
phong phú, tạo nên điểm mạnh và sự khác biệt đối với các quốc gia trong khu vực.
Trên 4 vạn di tích lịch sử, khoảng 3.000 di tích cấp quốc gia đã được xếp hạng,
khoảng 3.000 làng nghề truyền thống, trên 1.000 lễ hội đang hoạt động, 10 di sản
văn hóa được tổ chức UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của thế giới
(Gồm Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca
quan họ Bắc Ninh, Ca trù, Hội Gióng, Hát xoan, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương,
Đờn ca tài tử Nam bộ, Ví dặm Nghệ Tĩnh, Nghi lễ kéo co) và hoạt động văn hóa
dân gian, ca múa nhạc dân tộc truyền thống (rối nước, chèo, tuồng cổ, phong tục
tập quán...) là nguồn tài nguyên du lịch đặc sắc của đất nước.
Tuy
nhiên, theo số liệu thống kê của Tổng cục du lịch, tổng lượt du khách quốc tế đến
Việt Nam tính đến tháng 11/2015 đạt trên 07 triệu lượt, giảm 2% so với cùng kỳ
năm 2014. Đồng thời thông tin từ Ban quản lý Chương trình phát triển năng lực lịch
có trách nhiệm với môi trường và xã hội (Dự án EU), công bố kết quả khảo sát
khách du lịch tại năm điểm chính: Sapa, Hạ Long, Huế, Đà Nẵng, Hội An cho rằng
có đến 90% du khách lần đầu tiên tới mảnh đất hình chữ S, số du khách quay lại
các điểm du lịch rất thấp, chỉ chiếm khoảng 6%. Điều này khiến chúng ta không
khỏi băn khoăn, lo lắng đối với tương lai của du lịch nước nhà.
“Sợ” là câu trả lời
của một du khách nước ngoài khi được hỏi về cảm nghĩ sau chuyến du lịch tới Việt
Nam. Chắc hẳn sẽ có phần tự ái khi nhận câu trả lời từ một du
khách như vậy, bởi ta luôn tự hào về một Việt Nam với
chính trị ổn định, những thắng cảnh đẹp, những di tích lịch sử hào hùng, những
món ăn ngon, những lễ hội truyền thống đặc sắc... Ấy
vậy mà suy xét kỹ hơn, có lẽ phải cảm ơn người bạn ấy. Sự thật lòng, nhiệt tình
của người bạn khiến người nghe tự cảm thấy mình có lỗi, du lịch mình có lỗi với
du khách. Mà lỗi ở đây là”lỗi văn hóa” nhiều hơn”lỗi du lịch”.
Tính cách người
Việt
Truyền
thống hay bản sắc văn hóa là khái niệm tưởng như khó hình dung, nhưng hàng ngày
hàng giờ vẫn hiển hiện rõ nét trong mỗi cá nhân. Nước ta nằm ở khu vực Đông Nam
Á, văn hóa gốc nông nghiệp, tính cộng đồng làng xã cao, thuộc loại hình văn hóa
trọng âm, trọng tĩnh, cách nghĩ, cách làm của người dân cũng linh hoạt, uyển
chuyển, hài hòa, bao quát. Ở đây chỉ xét ở khía cạnh khiếm khuyết, hạn chế
trong tính cách, suy nghĩ và việc làm người Việt, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt
động du lịch hiện tại.
Ông
bà xưa có câu”Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao” quả
không sai. Người Việt trọng tình làng nghĩa xóm, tinh thần tập thể cao, làm gì
cũng cần có tập thể, trọng thể diện. Nhưng điều này lại
là nguyên nhân nảy sinh bệnh”ai sao mình vậy"; bệnh vô cảm, chặt chém; bệnh
phong trào, hình thức. Thế mới có chuyện đua nhau làm du lịch, khiến sản phẩm
du lịch bị trùng lắp, dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh. Chưa kể đến nạn chặt
chém, chèo kéo, lừa gạt, đối xử tệ với du khách. Rất nhiều trường hợp du khách
bị níu lại, kéo áo lại, được”mời” mua đồ, bị dọa nạt
nếu không chịu mua; hoặc mua đồ rồi không được nhận lại
tiền dư; bị móc túi, giựt đồ; phải đi taxi lòng vòng với giá cao; bị nhồi nhét
trên xe khách, tàu du lịch; giao thông thì như mắc cửi, mạnh ai nấy đi, nạn kẹt
xe xảy ra thường xuyên. Cũng có thể do tính tương thân tương ái nhiều quá nên
xuất hiện nhiều ăn xin, bán hàng rong, bán vé số. Suy đi
xét lại thì”cộng đồng quá lại hóa cá nhân”, những chủ nhân của các”căn bệnh”
kia đều vì lợi ích cá nhân nhiều hơn cộng đồng mà thể hiện trong hành vi, việc
làm.
Phi giá trị
trong văn hóa trọng”âm”
Thứ
đến là văn hóa trọng âm, ưa ổn định, mong muốn sự hài hòa, sức chịu đựng cao.
Vì thế mới có bệnh thiếu tầm nhìn, thụ động, thiếu bản lĩnh, xuề xòa, đại khái…
Thế mới có việc làm du lịch tự phát, không chiến lược kinh
doanh, sản phẩm du lịch đơn điệu, chậm đổi mới, chưa khai thác hết tiềm năng
hay chưa liên kết để cùng phát triển. Nhân lực du lịch được đào tạo chủ yếu
trên lý thuyết, thiếu kỹ năng sống, dẫn đến quá trình làm việc sau đào tạo chưa
hiệu quả, trình độ ngoại ngữ chưa đáp ứng, giao tiếp chưa tốt, chưa hiểu tâm lý
du khách… Bên cạnh đó, "nhiều rác” và "ít nhà vệ sinh” là những vấn đề nổi cộm.
Du khách có khi phải đi trên rác, ngồi trên rác,”ngắm”
rác. Họ không được sử dụng nhà vệ sinh khi cần, hoặc có nhà vệ sinh thì lại "không
hợp vệ sinh”.
“Chín
bỏ làm mười”, "Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, hay "Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với
ma mặc áo giấy…”, người
Việt ta từ xưa đến nay được coi là có khả năng thích nghi cao, sáng tạo, báo biến.
Tuy nhiên những giá trị tốt đẹp này lại nảy sinh
thói tùy tiện, cẩu thả, thiếu ý thức pháp luật. Vụ việc Chìm tàu du lịch Dìn Ký
tại Bình Dương, tại Hạ Long năm 2011 khiến du khách thiệt mạng là những vụ việc
điển hình. Nguyên nhân chủ yếu là do thủy thủ đoàn đã chủ quan trong việc kiểm
tra thiết bị máy móc, trong điều khiển phương tiện, trong cách xử lý tình huống
ứng cứu khi gặp nạn…
Tất
cả những "lỗi” trên, du khách là những người chịu ảnh hưởng trực tiếp. "Tiếng lành đồn gần tiếng dữ đồn xa”, du lịch cũng
không nằm ngoài quy luật đó. Bản thân văn hóa từ khi hình thành, tồn tại và
phát triển đã mang trong mình những giá trị và phi giá trị nhất định. Mỗi khu vực
khác nhau trên thế giới có những đặc điểm văn hóa khác nhau. Không thể phủ định
những giá trị của văn hóa đối với du lịch. Những công trình kiến trúc, những di
tích khảo cổ học, những loại hình nghệ thuật truyền thống, những lễ hội, ẩm thực,
phong tục tập quán tốt đẹp… tất cả đều có sức hút vô hình đối với du khách. Tuy
nhiên, những "hạt sạn” trong nếp sống văn hóa của người Việt đang là rào cản của
du lịch trong thời kỳ hội nhập. Do vậy, để thúc đẩy du lịch phát triển, trước hết
phải nâng tầm văn hóa của mỗi cá nhân.
M.P