Truyện ngắn của
Dương Đức Khánh
(Nguồn: Sách Mùa xuân đầu
tiên - Nxb. Đồng Nai 2017)
Lão Ba lúc sinh thời thường
hay kể, thuở ông già tía với ông nội lão tới khẩn đất đầu tiên ở cái xứ khỉ ho
này lão còn ở truồng tồng ngồng. Tròng cái áo bằng bao bố tời lút đầu gối, ngồi
bó rọ trên chiếc ghe tam bản dòm đỉa lội lền như bánh canh dưới con rạch đục ngầu.
Đêm ngủ trên chòi còn nghe sấu nổi lên quẫy đùng đùng... Rồi sau nầy thành xóm
thành làng có cái tên Rạch Ðùng. Rồi không biết từ hồi nào, ai đó cắc cớ gắn vô
cái tánh khí đùng đùng như lửa của lão, thành tên gọi tới giờ.
Lão qua đời nay hơn chục
năm. Hồi giờ, bàn thờ lão chỉ thấy gọn hơ cái bát nhang với tấm bài vị thầy
cúng viết bằng mực tàu. Dân ruộng rẫy quê mùa lớp lão hồi đó cả đời mới có dịp
chụp hình (có người còn kêu “chớp bóng”) được một vài lần, đó là lúc đi mần thẻ
căn cước. Cho nên, cái “thẻ bọc nhựa” của ai rủi ro hư hỏng thất lạc thì tới
lúc mãn phần nhắm mắt, cháu chắt đời sau chẳng biết chi mặt mũi ông bà.
Vậy mà mới hôm rày, con
cháu lão được dịp mừng húm như cha ông mình tự dưng đội mả sống lại!
Số là bữa đó, có mấy ông
cán bộ xã đi bằng tắc ráng vỏ lãi vô ấp lặn lội hỏi tìm nhà ông Ba Rạch Đùng.
Ngôi nhà vách ván tềnh toàng ọp ẹp dựng trên nền cũ bằng gạch tàu, còn những
tán đá vuông lõm tròn kê chân cột của loại nhà xưa. Bên chái đầu trên thấy còn
đống ngói vụn lẫn trong đất và cỏ. Hiện anh Hai Lúng, con trai một của ông Ba
đang ở thờ phượng cha mình. Đoàn dẫn theo một ông người Mỹ biết nói tiếng Việt
lơ lớ, xưng tên là Rai Xơn. Theo ông Tám xã đội giới thiệu, hồi chiến tranh ông
Mỹ đây đã từng đóng quân dài ngày ở Rạch Đùng này. Mấy chục năm nay giờ trở lại
thăm. Và đặc biệt là còn lưu giữ một bức ảnh về ông già Ba gần bốn chục năm về
trước, nay muốn gửi tặng lại gia đình. Ông Mỹ mở cái va li sam-sô-nai lấy ra một
khung hình trang trọng đưa ra trước mọi người: Hình ông Ba đúng y chang không
xê một nét! Nó không phải là thứ hình từ trong căn cước. Cũng không phải như
hình chụp ở tiệm thường có thợ ngắm nghía, sửa sang, mà là một gương mặt ông
già đang cau có, giận dữ chuyện chi đó. Nền bức ảnh lờ mờ như có nhiều người
phía sau. (Lúc nãy ngoài ủy ban, ông Mỹ đã đưa ra, nói tấm ảnh này mấy chục năm
trước đã từng “lên báo” bên Mỹ!). Đúng là gương mặt hay quạu quọ, nhăn nhó như
gáo đờn của ông Ba hồi còn sống mỗi lần gặp chuyện rắc rối, bực tức!... Anh Hai
Lúng run run ôm tấm hình úp vô ngực kêu tía ơi, rồi rưng rưng đặt lên bàn thờ.
Vợ anh ra bẻ mấy trái vú sữa bên chái nhà đặt lên, thắp hương. Mọi người, kể cả
ông Mỹ đều lặng lẽ chắp tay xá xá.
Với cuộc thăm viếng chốc
lát, với vốn liếng tiếng Việt kiểu “i tờ rít”- Ông Mỹ Rai Xơn dù muốn cũng
không thể giải thích đầu đuôi sự tình đã xảy ra cách nay ba mấy bốn chục năm rồi…
Nghe nói lúc trở ra ủy
ban xã, ông Mỹ còn ngỏ ý định lần này quay về nước sẽ vận động với hội đoàn chi
chi đó. Lần sau trở lại sẽ xin phép cất lại ngôi nhà thờ hệt kiểu nhà lão Ba hồi
xưa nữa...
***
Sinh thời, lão Ba là người
thiệt như cục đất. Vợ lão mất sớm. Có được thằng con trai là Hai Lúng bây giờ
lúc đó cũng bị bắt quân dịch đưa tuốt ngoài Trung, nghe đâu Quảng Trị, Đông Hà
chi đó, biệt tăm biệt tích. Lão sống một mình thui thủi. Cả đời lão chỉ quanh
quẩn với mấy đám ruộng, quen tật la hét dậy đồng mỗi lần quất roi cày vô mông
trâu, nên cái tánh nóng nảy như Trương Phi của lão làng trên xóm dưới ai cũng
biết.
Có lần ngoài đồng về, lão
ực cạn gáo dừa nước mưa rồi hể hả ngồi bệt
xuống thềm quấn điếu thuốc rê bằng ngón cẳng cái. Đang tới cữ ghiền, cái máy lửa
của lão tự nhiên trở chứng không chịu cháy (mấy người già lớp lão hay gọi cái bật
lửa nhôm là cái máy lửa). Lão mở nắp kiểm tra xăng, đá lửa cũng còn đầy đủ. Cạy
cục, thổi phù phù một hơi, quẹt tiếp xành xạch mười mấy cái nữa, rồi dí bánh xe
xuống nền nhà đẩy lửa văng xẹt xẹt, cũng trơ trơ “mẹ cha nó”! Lão nổi khùng, đứng
dậy quăng cái vèo tuốt bụi bông bụp ngoài ngõ rồi đùng đùng xuống bếp bươi than
đốt thuốc. Bặp gần nửa điếu thuốc, nghe cái cục tức cũng cứ còn nằm ngang cần cổ.
Lão bước đụi đụi vô nhà sau rút cái búa, phăm phăm ra hàng bông bụp kiếm lại bằng
được cái đồ “mắc ôn mắc dịch”! Lão hằm hè đặt nó lên cục đá kê thềm, nghiến
răng nện ba bốn búa tóe lửa! Cái máy lửa bẹp dúm, lão mới chịu quăng một lần nữa
xuống ao luôn cái tủm! “Hừ!”.
Trong những vật dụng thường
ngày của lão chỉ có cái máy lửa là có phần “máy móc” một chút nên nó mới trục
trặc. Còn mấy thứ do chính tay lão làm ra từ cái chạc trâu, tới cái cán cuốc
cán cày… thì kể như xài đời đời. Cái gối kê đầu lão đẽo bằng gỗ mít, xài lâu
năm màu gỗ lên nước vàng rộm, láng boong! (Mỗi lần làng cúng đình, có dịp giết
trâu bò, mấy chú mấy bác cứ hay giỡn: “Không có búa tạ thì chạy vô mượn cái gối
của ông Ba mà đập, bảo đảm trâu bò nào cũng chết tuốt!”). Còn cái gậy của lão,
có lần lão hì hà hì hục cả buổi ngồi cưa cái cát-tút đạn đại liên tra vô đầu
mũi, như người ta đóng móng ngựa. Lão chống thử cọc cọc, cười khà khà “ba đời
cũng chưa mòn!”.
Và, cũng cây gậy này - nó
gắn liền với câu chuyện cười ra nước mắt mà người làng Rạch Đùng nhớ đời mỗi lần
nhắc chuyện hồi giặc dã chiến tranh.
Chuyện là hồi lính Mỹ kéo
vô làng đợt thứ hai. Dọc bìa làng lúc ấy là dãy hàng rào ấp chiến lược ngăn
cách xóm làng với đồng ruộng. Ai ra đồng phải qua mấy cái cổng có lính gác, phải
trình giấy tờ.
Sớm ấy lão chống gậy tính
ra thăm lúa. Tới cổng rào không thấy thằng lính nào mà là… một thằng Mỹ mặt mũi
non choẹt, đứng ngơ ngơ ngáo ngáo. Hắn chĩa súng chặn lại, lên giọng bằng tiếng
Việt, bặp bẹ:
- Kan-quooc?... Ong co
kan-quooc khong?!...
- Tui ra thăm lúa, không
đem cuốc!... Lão chỉ tay ra ruộng, trả lời liền.
- No, no… kan-quoc, kan…
quooc! Hắn gằn mạnh từng tiếng, đưa ngón tay lên không khí vẽ hình chữ nhật nhỏ
xíu rồi cứ “kan quooc, kan quooc”!
- Tui-đi-thăm-lúa,
không-vác-cuốc! Mần chi có cán cuốc! - Lão bắt đầu nổi cáu… Bỗng lão giơ cây gậy
lên trước mặt hắn:
- Không có cán cuốc... cán gậy này được
không?!
-…?!
Liền lúc đó có mấy người cả đàn ông đàn bà từ
đàng xa vác cày vác cuốc đi tới, lão ngoắc lia ngoắc lịa:
- Mau mau, đem cuốc tới đây! Thằng Mỹ đòi cái
cán cuốc! Không biết mần cái chi!
Tới nơi ai nấy cười òa:
- Ơi dà, thằng Xơn!... Hắn
hỏi cái thẻ căn-cước! Cái “thẻ bọc nhựa” của bác đó!...
Như chực nhớ ra chuyện
cũ, mặt lão bỗng tím lại, mắt trợn lên đỏ vằn, miệng giựt giựt rung cả chòm
râu. Giọng lão đứt nghẹn:
-…Căn!... với cước!... Vườn
tao lãnh đủ… hai quả ca-nông tàu!... Nhà thờ nhà tự, gia phả mấy đời dòng họ
tao cũng cháy thiêu cháy rụi! Đừng nói chi căn với cước!...
Lão vừa gào vừa chỉ vô thằng
Mỹ đang nghệch mặt há hốc, chớ biết mô tê là chi cả! Lão còn giơ đầu gậy lên,
chỉ cái cát-tút: “Nè, đạn tụi bay bắn ràng ràng nè! Chối không!” làm ai nấy cười
lộn ruột!
Bà con xúm lại khuyên
lơn:
- Chuyện bom đạn giặc dã
mà hơi sức đâu bác Ba ơi! Tụi hắn chắc cũng bị bắt “quân dịch quân gà” như con
cháu mình đây cả! Nóng giận chi cho mệt!
Thằng Xơn (bà con quen
kêu theo cái chữ gì Xon trên túi áo hắn) thì cả làng ai lạ gì! “Cái thằng nhìn
cái mặt ngơ ngơ như “đi ỉa không biết đường dzô!”. Chắc đang đi học rồi bị bắt
lính qua đây. Súng nổ cắc cụp tối ngày, vậy mà chẳng thấy hắn biết sợ sệt chi cả!
Từ hồi về đóng quân, lúc nào cũng thấy mang máy chụp hình, máy thâu băng, gặp
cái giống gì cũng chụp, cũng thâu. Hôm hắn chụp với thâu được mấy cô đi cấy dưới
ruộng đang hò. Vậy là cứ đứng mở lui mở tới, coi bộ khoái chí lắm! Rồi gặp chổ
nào có mấy ông uống rượu, đờn ca lóc cóc là nhào dzô bấm máy thâu liền. Nhứt là
mấy hôm có gánh hát cải lương về hát trong sân đình làng. Đêm nào cũng thấy một
mình hắn lêu khêu đi với đám lính địa phương trong xã. Tụi lính ỷ quyền súng ống,
cứ xông vô “coi cọp”. Mình hắn đứng lại móc tiền ra mua vé đàng hoàng. Rồi ban
ngày, có khi hắn vừa đi vừa mở băng ca cải lương tửng từng tưng dậy làng!...
Mấy tháng sau.
Lão đang lui cui buộc
giàn bầu trước sân bỗng nghe tiếng loa tay rao vang đầu xóm. Lão chống gậy ra
ngõ thấy thằng Tư “a-lô” cũng vừa đi tới. (Cả làng ai cũng kêu bằng thằng Tư
nhưng thực sự Tư “a-lô” nay cũng ngót nghét năm mươi rồi. Anh ta mần chức mõ của
làng Rạch Đùng này đâu hồi mười mấy tuổi, ai nấy kêu thằng riết quen). Tư mình
lúc nào cũng tà lỏn đi chân đất cho tiện lợi “công tác liên lạc”! Không biết đi
xe đạp nên anh ta đi bộ kiểu rồng rắn, cứ hết cuối xóm nầy lại lội tắt đường ruộng
dzọt qua xóm khác. Nên mỗi cái tin anh ta rao khắp làng mau cấp kỳ!
Lão tằng hắng:
- Rao cái chi đó mậy!...
- Sáng ngày mai, đúng bảy
giờ, ra đình làng nhận bồi thường! Chánh phủ bồi thường thiệt hại trận ca-nông
hồi năm ngoái! Ông Ba nhớ đem theo “tờ
khai gia đình” nghe ông Ba!
- Mẹ… nó! Cũng giấy với tờ!
Mà có chắc không mậy!...
Giọng Tư tưng tửng:
- Ơ, tui “a-lô” mấy chục
năm nay mà nói dóc cho “chánh phủ” bỏ tù rục xương à! - Rồi anh ta bắc tay lên
miệng: A lô!! A lô!... Kính mời toàn thể đồng bào!!... Đúng bảy giờ ngày mai… tập
trung tại đình làng… A lô! A lô!.
Lão vừa trở vô vừa lầm bầm:
- Bồi với thường!… Chắc
cũng giống cái đận cứu trợ hôm hổm chớ gì!... Bà mẹ cha nó!...
Nhớ tới lần đó, trong bụng
lão còn cục tức anh ách. Nghe tin xóm giềng ới nhau đi nhận “cứu trợ”, kêu bằng
“Chương trình cứu trợ nạn nhân chiến tranh”, cũng từ cái loa của thằng Tư, lão
cũng lật đật chống gậy đi. Đang lúc ngay giữa mùa nước lớn, ruộng đồng ngập
lênh ngập láng. Đúng là “họa vô đơn chí”, mới bị trận ca-nông tanh bành làng
xóm nhà cửa, lúa thóc trong bồ cũng cháy rụi. Nay nhồi thêm trận lũ lớn, hột
lúa ngoài đồng sắp sửa cắt cũng chìm ráo trọi. Đói cả làng là cái chắc! Theo
thông báo của xã ấp, bà con phải tập trung ra gò đất nổi giữa đồng, rồi có phái
đoàn tới phát quà cứu trợ. Từ sáng sớm, lớp xuồng lớp ghe lũ khũ chống chèo như
đi nhóm chợ giữa ruộng. Ngồi chờ mỏi cổ tới chín mười giờ trưa, cũng chưa thấy
bóng con ma nào tới cứu tới trợ cái giống chó chi cả! Già trẻ lớn bé đang ngồi
sắp lớp giữa gò bỗng trời chuyển đen kịt, mưa ập xuống, không một tán cây cối
gì che. Cả làng ướt nhem như bầy chuột lột! Bà con bắt đầu la ó. Nhứt là lão
Ba, sáng giờ lão như khùng như điên, chực muốn phang gậy vô đầu mấy thằng cha
xã ấp cho bõ tức!... Lúc sáng lão quá giang xuồng hàng xóm, giờ như bị giam tù
lỏng giữa đảo như dzầy! Giờ tính bơi không nổi lội không xong. Chớ phải chi chỗ
khác đường sá khô ráo là lão chống gậy bỏ về mất đất tám chục kiếp rồi! Thèm
đách vô! “Bà mẹ cha nó!”…
Cha Bảy Trưởng ấp sáng giờ
cũng biết khôn, cứ ngồi trên ghe tam bản gắn máy ko-le, cầm cái loa tay chạy
pin giọng ra rả “A lô, a lô! Bà con yên tâm, bà con cố gắng chờ đợi một lát nữa
thôi!... Đoàn cứu trợ đang trên đường tới bằng... ca-nô!... Bà con cứ bình
tĩnh, yên chí!... Ca-nô đang chở thực phẩm, áo quần, thuốc men... tới tận đây cứu
trợ bà con mình!...”
Cho tới tận giữa trưa, trời
lại nắng lên chang chang, cả làng lại phơi nắng chịu trận. Ngóng mút mắt chẳng
thấy bóng ca nô ca niếc nào chạy tới. Tới xế chiều, kẻ than người thở, kẻ nằm
người ngồi la liệt. Đang kêu trời kêu đất bỗng từ trên trời lù lù xuất hiện hai
chiếc trực thăng đâm thẳng tới. “Chết mẹ! Máy bay tới bắn bà con ơi!!... Chết
cha rồi! Chạy đường trời!!...”. Nó hạ thấp xuống nghiêng mình liệng mấy vòng phần
phật trên đầu. Quá hoảng, mạnh ai nấy phóng đùng đùng xuống nước! Tội nghiệp mấy
ông bà già cả, mấy người bồng con dại cũng ôm con phóng ào ào. Một cảnh tượng hỗn
loạn giữa đồng nước minh mông, như bầy le le gặp diều hâu, nhìn thê thảm hết biết!
Bỗng từ trên máy bay có
tiếng loa rền trời vang xuống “Đồng bào chú ý! Đồng bào bình tĩnh!... Đây là
đoàn cứu trợ của Hội Hồng thập tự quốc gia… Đồng bào hãy ổn định trật tự để chuẩn
bị nhận quà!”. Từng loạt túi quà từ máy bay ào ào trút xuống. Tiếng loa trưởng ấp
lại vang lên “Bà con trật tự, ổn định!... Mỗi người được nhận một phần, do các
cán bộ ấp kiểm tra, phân phát!... Ai nhận xong xuống ghe xuống xuồng. Giải
tán!...”
Chèo chống vô tới xóm tới
nhà, bà con ai nấy vừa đói vừa mệt đứt hơi. Nhưng cũng an ủi, khấp khởi với bịch
quà nhận được. Chẳng biết là cái thứ gì trỏng?! Thiệt tình, thứ bà con cần lúc
này cũng chỉ đơn giản chừng năm mười lít gạo, ít mắm muối tương chao gì đó sống
qua ngày đoạn tháng. Nhưng cái bịch to tướng mà nhẹ hều, chắc hoàn toàn không
phải mấy thứ đó.
Lão Ba cũng muốn lết mới
về tới nhà, cũng đói muốn rã ruột! Lão mở bọc quà lôi ra mấy thứ: Một hộp giấy
cứng vuông vuông, lắc nghe òng ọc, chắc là sữa bò pha lỏng; một ổ bánh mì niêm
trong bịch ny-lông. Một miếng gì xeo xéo tam giác, như cục mỡ đông, chắc bơ béo
chi đây! Toàn thứ từ nhỏ tới giờ lão chưa hề nếm tới. Sẵn bụng đang đói, thôi
cũng “mần tây” một bữa thử cái coi! Lão xé khúc bánh mì, xoi lủng hộp sữa. Lão
cắn miếng bánh mì rồi hớp ngụm sữa, vừa tới miệng lão ọe ra liền. Đúng là cái
mùi lờm lợm không chịu nổi!... Cơn ói ụa kéo dài một hồi. Lão đứng dậy quăng hộp
sữa cái oạch tuốt ngoài sân, chửi lầm bầm. Rồi lão kêu con Mực, quăng cho nó
cái bánh mì với miếng bơ. Nó cắn bánh mì, còn miếng kia nó ngửi ngửi, bỏ đi.
Đó, rõ ràng tới chó còn chê chớ đâu mình lão! Nhớ sực lúc sáng trước khi đi,
lão có bắc nồi khoai lang lên bếp. Vậy là vô nồi bốc mấy củ khoai mần no bụng.
Ra ngoài lu mần gáo dừa nước mưa. “Ao ta ta tắm”. Xong! Lão quấn điếu thuốc rê
phì phà bập bập rồi lầm bầm tự chửi mình “già cái đầu còn dại”!
Chưa hết, lão lại xăm xoi
cái gói áo quần. Thôi thì cái ăn không ra gì, vứt đi cũng còn cái mặc. Mùa gió
bấc cũng gần tới, có thêm cái áo cái quần cũng đỡ khổ. Lão lôi ra cái thứ nhứt:
Cái quần - một cái quần giữ bò cũ mèm, bự tổ chảng. Lão đứng dậy đọ thử bề dài,
đúng tới lỗ mũi. Còn bề ngang cỡ hai người như lão chui vô cũng lọt tót! “Mẹ
cha nó! Cứu với trợ!”. Thứ hai: Cái áo - một cái áo thun vàng rực, bự cỡ ba người
như lão tròng vô tuốt luốt, có in hình hẹo gì tùm lum. Lão trải ra coi thử, trước
ngực là hình một thằng cao bồi râu quai nón cưỡi ngựa đeo súng lục, phía sau
lưng hình một cái đầu lâu hai xương chéo, ớn lạnh! Lão đứng dậy ướm thử, gần tới
mắt cá, chắc khỏi mặc quần! Chà, lão mà mặc cái áo này vô chắc thiên hạ bật ngữa,
chạy la làng hết!... Cái thứ ba, lão xổ ra: Hô hô!... Một cái xịnh đầm bự chảng,
bông hoa đỏ choét!! Tới nước này thì lão hết đổ quạu, hết chửi rủa chi nữa rồi,
mà cứ ngồi cười khùng khục!...
Nhìn tới nhìn lui mấy cái
áo quần khổng lồ, lão bỗng nảy ra cái ý tưởng ngồ ngộ, hay đáo để. Lão gục gật
một mình “cũng được việc đây, cứ để đó!”.
Mấy sào ruộng của lão thuộc
đùng đất gò giáp bìa làng, không bị nước chụp. Mùa nầy lão đang trồng hai sào nếp.
Mới trổ đòng đòng nhưng hôm rày thấy lũ chim chóc đã lượn lờ rập rình. Hôm sau
lão lui cui cả ngày, chặt tre làm sườn, quấn rơm thành hai thân hình bù nhìn to
đùng đùng. Lão cho mặc quần áo khổng lồ vô, thành một thằng cao bồi với một con
đầm áo bông đỏ rực! Lão kiếm đâu được cái mũ lưỡi trai cũ với cái nón đệm, đội
lên. “Bù nhìn ngoại quốc! Hà hà! Ghê chưa!”. Lão đắc ý lại cười khùng khục một
mình rồi vác cả hai ra ruộng, hì hục cắm hai đứa cao lớn nghều nghệu đứng trấn
hai đầu bờ.
Cái tin nóng hổi “Tây Mỹ
ra đứng đuổi chim ngoài ruộng ông Ba Rạch Đùng - một thằng một con!” lập tức được
đồn rùm khắp làng chiều hôm đó. Già trẻ trai gái chạy ra rần rần như đi coi
hát, ai nấy đứng cười muốn lộn ruột “Cha cha, cái màu đỏ màu vàng này là chim
nó sợ vãi cứt luôn nghe!”... “Oa, có thằng cao bồi cỡi ngựa mang súng nữa các
cha ơi!”… “Ô, Sọ người! Xương!... Ha, cú nầy tới đại bàng diều hâu cũng chạy
cong đuôi, nói chi mấy con bồ chao se sẻ nhóc nhen!... Đúng là Ba Rạch Đùng thiệt!”…
***
Sáng ấy tại sân đình
làng, băng rôn cờ xí treo đỏ rực - Rai-Xơn cũng có mặt, mang máy ảnh lăng xăng
cùng với tốp lính tóc vàng mắt xanh làm nhiệm vụ hỗ trợ chính quyền địa phương
lo công việc bồi thường thiệt hại cho bà con.
Từ mờ sáng, dân làng đã đứng
ngồi lố nhố trước cổng đình. Lần lượt mỗi “nóc gia” được bồi thường hai trăm bạc
với hai chục tấm tôn lợp nhà. Ai nhận xong buộc tròn lại, xỏ cây tre, hai người
gánh.
Rai-Xơn đang nhướng chân
lên hốc cây si bên góc sân đình, giơ máy nhắm toàn cảnh. Và, bỗng giật mình hạ
máy xuống để nhìn cho rõ. Đúng là lão già nóng nảy hôm nọ - lão Ba Rạch Đùng!
Lão chống gậy sai sải như người đang chống xuồng, cái đầu gậy có tra cái
cát-tút đạn đại liên kêu ràn rạt. Một tay lão vạch đám đông xấn thẳng vô. Điếu
thuốc rê to tướng ngậm trể bên mép, phà khói xanh um, đặc quánh. Xơn bấm máy
“krách, krách!” lia lịa. Lão liệng tàn thuốc cái bịch xuống đất, bước tới trước
mặt mấy tay cán bộ xã, ấp mặt hầm hầm.
Biết rành tính khí lão,
cha Bảy trưởng ấp ve vuốt xuề xòa:
- A hà, bác Ba mới tới! Đếm
tôn lẹ cho bác tụi bây! Có cháu chắt gì theo gánh cho bác không?! Hay là để tụi
tui cho lính của ấp gánh tới nhà cho bác luôn nhe! Bác qua bàn bên kia, lăn tay
điểm chỉ rồi lãnh tiền trước đi bác Ba!...
Vẫn bản mặt chàu quạu,
lão lườm xoi xói một lượt từng cặp mắt xanh lè mà lão cho là “thủ phạm dội
ca-nông” vô làng Rạch Đùng này hồi năm ngoái!
Tự nhiên, Xơn giựt mình
kéo sụp mũ xuống nửa mặt và ôm máy đứng né lui sau vai một thằng kia “krách,
krách!”.
Lão rê gậy bước qua bàn
lãnh tiền, trờn trợn, lắc lắc đầu. Bước tới đống tôn đứng tằng hắng, nhịp nhịp
đầu gậy kêu kình kình. Giọng lão gầm gừ chi đó như bửa củi một hồi, rồi hằm hằm
vạch đám đông bước ra ngoài.
Ngồi bệt vạt cỏ trước cổng
đình một mình, lão lui hui quấn điếu thuốc rê “kèn tây” ngồi phà khói cuồn cuộn
như đám cháy.
Lúc ấy thấy Rai-Xơn cứ
loay hoay với máy ảnh máy thâu, gương mặt răng vẩu ngố ngáo cười, lộ vẻ vui mừng
như vừa vớ được của! Xơn bật lại máy thâu băng, tiếng lão ồm ồm phát ra trong
máy:
-... Không! Không phải
cái thứ nầy!... Nhà tao ngói âm dương mà!... Cột săng kiềng kiềng!.. Mần tới ba
đời chưa xong lận!... Đâu phải cái đồ nầy?!…
Cả tốp mắt xanh tóc vàng
đứng đực mặt, chẳng hiểu mô tê trời đất chi! Nhưng bà con cả làng ai nấy đều
nghe, cười ra nước mắt!
Ngoài cổng đình lúc ấy thấy
lão đứng lên phủi đít, đùng đùng khua gậy bỏ về một mạch. Bóng lão như trôi với
làn khói thuốc rê xanh um cả khúc đường làng...
Về tới nhà buông mình xuống
cái võng gai giăng trước hàng ba, thọc gậy vô gốc cột tràm đưa cọt kẹt, lão
nghĩ ngợi lung tung. Chuyện giặc giã súng đạn, còn cái mạng sống là hú ba hồn bảy
vía. “Người sống hơn đống vàng!”. Hôm đó cũng may lão đang bừa ngoài ruộng, chớ
ở trong nhà thì cũng banh xác, “đi bán muối” tám kiếp rồi!
Đành rằng “của đi thay
người”, cả làng cả nước chớ riêng chi mình lão. Nhưng mỗi khi nhớ tới ông già
tía với ông nội lão, lão đau lòng không chịu nổi! Cả đời “trần ai khoai củ”, chắt
mót nhịn đói nhịn khát, ông nội lão chỉ ước ao cất được ngôi nhà giống hệt ngôi
nhà nơi chôn nhau cắt rốn ngoài xứ Quảng gốc gác, tuốt tận ngoài Trung!
Hồi còn nhỏ lão nhớ, qua
mỗi mùa lúa trúng là tía lão tròng bộ bà ba đen đi chân đất, xách giỏ đệm đựng
cả cục tiền đón đò dọc lên bến Cần Thơ. Ăn chực nằm chờ có khi cả tháng trời,
đón ghe bầu chở cây gỗ ngoài Trung vô. Mỗi mùa mua được một mớ cột kèo... Tới
ngày sắp kêu được thợ về đục đẽo thì ông nội lão ngã bịnh liệt giường. Trước
khi nhắm mắt ổng trăn trối quả quyết chỉ bó chiếu với bảy nẹp tre, khỏi hòm
rương chi cả!... Để dành dựng cái nhà cho tử tế mà thờ tự!
Tới đời ông già tía lão nằm
xuống cũng chỉ cái hòm ván gòn nhẹ bẫng! Vậy mà cho tới ngày lão cưới vợ mới mần
nổi bộ cửa, mới kín được cái nơi thờ phượng hương khói...
***
Hơn tháng sau.
Anh Hai Lúng đang ngồi ở
trần ôm cây đờn vọng cổ tịch tình tang trước hiên thì bất ngờ từ ngoài ngõ, ông
Mỹ Rai-Xơn lừng lững xuất hiện. Cánh tay đầy lông giơ lên với miệng đầy râu
đang cười chữ ô. Quay lại lần này chỉ có ông ta với một anh thanh niên khá bảnh
trai, giới thiệu là người phiên dịch của công ty du lịch chi đó.
Ông Xơn bước vô chấp tay
cúi đầu trước bàn thờ ông Ba, nhìn rất lâu lên tấm ảnh. Cái “tác phẩm” ông nâng
niu gìn giữ từ thời trẻ trai tới giờ sắp thành một ông già bằng tuổi ông Ba hồi
đó. Và cứ mỗi lần nhìn vào, ông lại trông chờ người trong ảnh một ánh nhìn tha
thứ! Còn với ông, từ hồi là chàng trai mặt búng ra sữa, bị đẩy qua cái xứ sở lạ
lùng này, bị sự “la mắng” của một ông già nóng nảy thẳng thắn - Ông còn nhớ rất
rõ, từ cái lần đầu ở cổng hàng rào ấp chiến lược tới lần ở sân đình làng, ông đều
cúi đầu như một đứa con lầm lỗi!...
Qua giây phút xúc động,
ông quay ra vịn vai anh Hai Lúng, một tay gẫy gẫy vô dây đờn. Ý muốn tiếp tục
nghe lại tiếng đờn vọng cổ ông ta từng mê mẩn năm xưa...
Vừa dứt bản đờn, ông loay
hoay lôi trong cặp ra - lần này cũng một xấp hình màu cỡ lớn!... Vừa bập bẹ tiếng
Việt ý được ý mất cùng với lời phụ họa của anh chàng phiên dịch, ông trình bày
ý định của mình với anh Hai Lúng. Hóa ra cả tháng nay, ông ta mang máy ảnh lặn
lội khắp nơi, không phải gặp thứ gì cũng chụp như ngày trước mà chủ yếu là...
những ngôi nhà gỗ xưa ở các miền quê!... Đặc biệt là những ngôi nhà có ý định
muốn bán.
Bày ra hết các tấm ảnh
trước mặt anh Hai Lúng, ý muốn anh Hai chọn ra ngôi nhà nào giống nhà mình ngày
trước nhất!... Còn lại là việc thực hiện của ông Rai-Xơn trong nay mai...
D.Đ.K