Vậy là anh Hai đi.
Đi thật rồi. Đi vào thăm thẳm lãng quên, nếu tôi muốn nói thế. Vậy là tốt. Tôi cũng muốn quên. Trong lúc tôi cố xua đi những hình ảnh cuối cùng ở nghĩa trang thì tay tài xế không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào lại bật bài Cho một người vừa nằm xuống của Trịnh Công Sơn. Tốt hơn là ngủ một giấc để không phải nghe gì nữa. Điên thật, đã không định nghe, nhưng có thứ gì đó cứ lọt vào tai.
“Rồi nằm xuống, không bạn bè, không có ai/ Không có ai, từng ngày, không có ai đời đời/ Ru anh ngủ vùi/ Mùa mưa tới trong nghĩa trang này có loài chim thôi…".
Vừa nãy, trước lúc rời nghĩa trang, tôi cũng thấy mấy con chim nhảy trên những ngôi mộ. Sao mà trùng hợp! Giọng ca sĩ dày, vang, u uất quây lấy tôi trong không gian chật hẹp của chiếc ô tô bốn chỗ tôi đặt riêng cho chuyến đi dài này.
“Người tình rồi quên, bạn bè rồi xa/ Ôi tháng năm, những dấu chân người cũng bụi mờ…".
Tôi không thoát ra được, khi không lại thấy mình rơi vào trạng thái u uất chưa từng có. Người tình rồi quên, bạn bè rồi xa. Hẳn nhiên, đến cả người thân ruột thịt còn quên nữa là. Chẳng biết anh Hai tôi rốt cuộc có bao nhiêu người đàn bà ngoài hai đời vợ chính thức và năm đứa con, nhưng cuối đời vò võ chết như kẻ cù bất cù bơ không một ai bên cạnh. Trong đám tang, tôi nghe họ xì xào, vợ con cho lắm mà không một người nhận nuôi, anh cũng chẳng được chết ở nhà mình, vì dơ dáy nên phải chết trong căn trọ tồi tàn chăng? Đám ma cũng làm ở đó. Mấy đứa con hùn nhau thuê cho anh cái phòng ấy, cơm nước thì đặt qua mạng cứ tới giờ là người giao hàng mang đến chuồi qua cửa. Thỉnh thoảng có người giúp việc đến lau dọn giặt giũ thì cũng là người được tụi con anh thuê. Rồi nghe nói khi người ta biết anh đã chết, họ gọi cho con anh, thế quái nào thằng con lại alô rồi dập máy, còn quát ầm lên trong điện thoại là nhầm số rồi. Có lẽ thằng con quên mất rằng mình có một thằng cha.
Ai rồi cũng chết. Anh Hai tôi đã chết như thế. Tôi nghĩ vợ con anh, họ không phải chờ anh chết mới không nhớ tới anh mà họ đã thực sự quên và muốn quên ngay khi anh còn thở. Chẳng ai nói điều gì về anh nữa cả. Cái thứ nằm trong quan tài ấy chỉ là xác của một con người giữa nhân loại tầm thường, có chăng họ lo là lo hồn ma người chết không siêu thoát được sẽ về ám, cản trở đường công danh, sự nghiệp, tiền tài của họ, cái linh hồn mà cuộc đời họ đã vương vào ấy, giờ họ chỉ muốn tống nó đi như người ta tống tà, cõi tây phương cực lạc hay cõi âm tào địa ngục, mặc xác, cõi nào cũng được miễn là mãi mãi đừng về quấy nhiễu. Có khi nào trong một khoảnh khắc giữa cái cuộc đời chộn rộn và đầy toan tính này ai đó dừng lại thắc mắc người đang thối rữa trong đất kia là người thế nào, đã ăn ở ra sao? Họ chẳng buồn nghĩ đâu. Vậy cũng tốt. Quên là tốt. Nhớ mới mệt. Tự nhiên tôi nhớ. Nhớ ghê gớm. Nhớ không sót một điều gì. Thật, không một điều gì.
“Tắt nhạc giùm tôi", khi không tôi muốn nói.
***

Minh họa: Lê Trí Dũng
Đường về nhà chúng tôi ấy, nó toàn sình và sình thôi. Tháng Chín mưa đầu mùa mà to như mưa lụt. Chỉ có duy nhất một con đường này để về nhà sau khi băng qua cánh đồng nhỏ trong thôn. Anh Hai đeo cái cặp màu xanh dương có chữ ABC đi đằng trước, tôi bám gót theo sau, mắt không rời khỏi đôi vai ấy. Đó là cái cặp mới. Giờ tôi vẫn nhớ. Nó mới toanh, cái khuy vàng sáng chói, đáy nó vuông vắn cứng cáp, mẹ tôi đi chợ huyện bán bớt mấy con gà rồi nhân tiện mua nó. Tôi chuồi tay ra sau, sờ vào cái cặp trên vai mình, chỗ bị thủng, mẹ tôi vừa vá lại tối qua. “Anh Hai lên lớp lớn, nhiều sách vở, cần hơn con", mẹ tôi nói vậy khi cặm cụi vá nó. Tôi ngồi bên chờ đợi. Đó là chiếc cặp cũ của anh Hai. Tôi mới vào lớp Một, sách vở ít nhom, với lại nhà tôi túng lắm, không sắm đồ mới cho hai anh em được. Sách anh Hai học xong thì để lại cho tôi, cặp cũng thế, áo quần cũng thế. Tôi biết cái cặp mới ấy rồi sẽ là cặp của tôi, khi nào nó cũ đi.
“Anh Hai đừng để cái khóa bị rỉ sét nhé".
“Đương nhiên".
“Anh Hai đừng làm thủng nó nhé," tôi lại nói khi xắn cao quần lội qua một đoạn đường lầy.
“Đương nhiên".
Lúc nào anh Hai tôi cũng nói đương nhiên. Năm sau, lên cấp Hai, mẹ tôi lại mua cặp mới vì cái cặp có chữ ABC đó, nhìn nó con nít lắm, và bà tiếp tục vá cặp cho tôi. Phải vá thôi, ngày nào anh Hai cũng quăng nó lên bàn, khi thì quăng vào giường, cứ như nó là thứ gì đó mà không phải của anh. Cũng phải, anh chỉ đang dùng cặp của tôi thôi mà, khi nào nó rách và anh không cần nữa. Mẹ tôi luôn bảo thằng anh đi trước, thằng em nối gót theo sau. Luôn như thế. Một tượng đài choán trước mặt tôi. Tôi thèm thuồng, tôi phấn đấu để có được những thứ mà anh Hai tôi thải ra ấy. Nó không phải là một loại bất công, ít nhất thì hồi ấy tôi không hề nghĩ điều gì như thế, tôi chỉ thấy hãnh diện khi anh Hai nói “mày đeo cái cặp của anh nhìn oách xà lách lắm". Cái điều ấy, cái điều mà tôi không muốn nói ra ấy nó tồn tại như lẽ hiển nhiên. Ừm! Tạo hóa đã định rồi, tôi phải chui ra chào cái cuộc đời bất công này sau anh Hai của mình. Nên cái xe đạp cũng anh Hai dùng trước.
Đó là cái xe mà hai anh em cùng mơ ước. Nó màu tím than. Thời đó, có đứa trẻ con nào mà không mơ như thế. Và mẹ tôi vẫn không thể mua hai chiếc xe đạp cùng lúc cho hai anh em. Thực ra, bà đã kì kèo thêm bớt mãi mới nài lại được của một người bà con xa lúc gia đình ấy chuyển nhà nên bán thốc bán tháo mấy đồ đạc cồng kềnh. Cái xe không có yên sau, mẹ tôi cố gắng mà không kiếm được cái yên nào để lắp vào, còn anh Hai thì luôn miệng bảo vậy tốt rồi cần gì yên sau cho rườm rà ra, bữa nào anh rảnh sẽ cho tôi mượn xe đi học. Và rồi một tháng ba mươi ngày tôi đi bộ cỡ hai chín ngày rưỡi vì chẳng bao giờ thấy anh Hai rảnh, anh học chính một buổi rồi đi đâu đó buổi còn lại. Chủ nhật anh Hai ở nhà thì tôi cũng phải ở nhà. Mấy năm sau, con xe ấy thành xe của tôi khi anh Hai lên cấp ba, cần con xe ngon lành mới đạp lên trường huyện học được. Khi đó, cái xe màu tím than chẳng còn tí dấu vết nào để biết là nó màu tím than, thậm chí tôi chẳng biết phải gọi nó là thứ chi chi dù cố gắng thì vẫn đạp được. Mẹ tôi có mang nó đi sửa tạm vài thứ rồi giao nó cho tôi. Mẹ động viên tôi, mẹ còn biết nói gì ngoài việc nói đại là cố gắng ít năm rồi cái xe mới cóng vừa mua ấy sẽ thuộc về tôi.
“Của con. Nhưng là khi nào nó nát đi, phải không mẹ?".
Mẹ tôi khựng lại, lặng im. Tôi biết bữa ấy mình đã gây ra một sự khó xử, nó như vết thương lòng của mẹ. Sau này, bà luôn tránh nói về những chuyện như thế giữa anh em chúng tôi. Tôi thương mẹ, biết bà vất vả với trăm mối khổ trong lòng nhưng biết sao được, tôi chỉ nói sự thật.
Năm ấy còn tệ hơn, cái xe mới cóng đó nó chẳng tồn tại được đến lúc về tay tôi. Anh Hai đã bán nó rồi bỏ học khi chưa xong lớp Mười. Anh Hai ở luôn trên thị trấn để học nghề, nghề gì thì tôi chẳng biết, cũng không thèm hỏi. Chỉ có mẹ là thỉnh thoảng lên thăm, chẳng biết anh Hai nói gì mà lần nào về nom mẹ cũng phấn khởi, lâu lâu tôi thấy bà bán đi khâu vàng mang lên cho anh tôi. Nhà tôi nghèo, mẹ tôi vất vả nhưng như hết thảy những người phụ nữ lầm lũi và tận tụy mà tôi biết trong làng khi ấy, mẹ tôi có vàng. Vàng từ thời con gái, vàng hồi môn ngày cưới, vàng ba tôi kiếm được hồi ông còn sống, vàng chắt bóp tằn tiện… Ăn không dám ăn, mặc không dám mặc, chắt chắt bóp bóp dư được khâu nào làm ngay khâu đó. Có dạo anh Hai về thăm, trắng trẻo bảnh bao đi tới đâu người ta cũng quở, nghe nói con gái thị trấn mê anh Hai tôi lắm. Mẹ tôi nở mày nở mặt, nghĩ rằng mình sẽ có dâu thị trấn. Thi thoảng, giữa bữa ăn, khi chỉ có hai mẹ con trong nhà bà lại nói vu vơ về chuyện làm sui trên đó, có chút lo lắng mà cũng có chút hãnh diện. Ai cũng biết anh Hai tôi có bồ chỉ là chưa đem về ra mắt.
Từ ngày vắng anh Hai trong nhà, tôi dần dần thấy tình cảm anh em dường như tốt lên, chí ít là về phía tôi. Tôi không còn khó chịu hay ấm ức bực dọc khi mẹ tôi dành ưu tiên đầu tư mọi thứ tốt nhất cho anh mình. “Nhất đi nhì mới nổi", hẳn nhiên rồi. Mẹ tôi trông chờ vào anh Hai, tôi cũng trông chờ, tôi cảm giác như thành bại của anh Hai mình khi ấy chính là vận mệnh của cả gia đình, nghĩa là vận mệnh của đời tôi và tôi chỉ mong chờ ngày anh mở xưởng tự làm chủ như lời anh nói mỗi khi về thăm.
Thế đấy, cái vận mệnh ấy đã xoay một vòng như chong chóng vào ngày anh Hai bất ngờ về nhà rồi cho tôi rất nhiều quần áo. Toàn đồ đẹp anh mặc chưa cũ. Tôi chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra, lúc ấy tôi vẫn còn đi học, căn bản không cần nhiều áo quần đến thế. Nhưng tôi cảm động lắm, anh Hai chưa từng cho tôi thứ gì đáng trân trọng thế cả. Tối đến, mẹ tôi bần thần lấy ra đâu tầm chục chỉ vàng. Anh Hai đi làm ăn xa, nói là quyết chí giàu mới về. Hai hôm sau, tôi chở anh Hai xuống đường quốc lộ, bịn rịn không muốn anh đi nhưng anh tôi là người lớn thật rồi. Dọc đường về, tôi nhớ anh Hai mình ghê gớm, thấy những chuyện lúc nhỏ trước kia sao mà trẻ con mà buồn cười thế.
Mấy năm sau, anh Hai mới thư về, như chờ đợi của chúng tôi, công việc làm ăn khấm khá, anh đi buôn gì đó mà kể trong thư là đã sang tận Campuchia. Mẹ tôi mừng, tôi cũng mừng, sướng nhất là được thư qua thư lại mỗi năm vài lần. Tôi nhớ nhất cảnh ngồi đọc thư cho mẹ nghe sau bữa tối, rồi chép thư, bà bao giờ cũng sụt sùi mỗi lần nhắc đến thằng Hai. Cuối mỗi lá, khi đã xong phần của mẹ, tôi tranh thủ biên thêm một đoạn kể chuyện của mình. Chủ yếu là dặn anh cố gắng làm ăn, dồn tiền để khi nào tôi cưới vợ anh nhất định phải về. Tôi đã có người yêu, đó là người con gái đã cùng tôi lớn lên, nhà ngay đầu xóm chắc anh Hai cũng biết. Tôi kể về những dự định của chúng tôi, có cả chuyện mong anh làm ăn thuận lợi rồi biết đâu mai mốt cưới xong chúng tôi cũng sẽ theo anh. Anh Hai hứa sẽ về, lòng tôi đầy tin tưởng…
Rồi anh Hai về, đột ngột đến khó tin. Không phải vì tôi cưới vợ. Tôi nói là nói trước với anh thế thôi chứ khi ấy tôi còn bấp bênh, công ăn việc làm chưa nên cơm cháo gì. Với lại, mẹ tôi lúc nào cũng tâm nguyện là lo đám cưới cho anh Hai xong rồi mới tới phần tôi.
Anh Hai về, bóng lộn như minh tinh màn bạc. Chuyện làm ăn, anh nói trơn tru như ai bôi dầu vào mồm miệng. Đừng hỏi mẹ tôi mừng đến thế nào. Tôi cũng chẳng khác được. Tôi đưa người yêu về ra mắt, nàng đang làm điều dưỡng ở bệnh viện huyện. Anh bảo năng đưa về cơm nước cho vui cửa vui nhà. Tôi phấn khởi như chưa bao giờ phấn khởi thế. Ngôi nhà rộn ràng như chưa bao giờ rộn ràng thế. Hơn hai chục năm trên cõi đời, lần đầu tiên tôi cảm nhận trọn vẹn niềm hạnh phúc khi có anh Hai đến nỗi tôi thấy mình như bé lại, nhất là những lần anh lên thị trấn có việc, khi về thì quẳng sang cho tôi thứ gì đó hay ho, khi cái nịt, khi đôi giày, khi cái áo… để tôi diện đi chơi với người yêu cho nở mày nở mặt. Hoặc là bày tôi chải lại mái tóc, rẽ lại đường ngôi… Tôi cứ nghĩ anh em chúng tôi từ đây về sau sẽ mãi như thế, cái tượng đài mang tên anh Hai không cần ai đắp mà vững chãi lắm rồi.
Thế rồi khi giờ đến ngày đến, người buộc phải rời đi. Rời đi mang theo tất cả số vàng còn lại của mẹ. Và mang theo tất cả niềm tin lẫn hi vọng của tôi với cuộc đời. Lần đầu tiên tôi hiểu cảm giác muốn giết một ai đó là thế nào. Tôi cầm con dao lên, toàn thân không còn làm chủ được nữa.
“Mày ngon mày đâm tao đi, ai đau biết liền à…"
Người tôi run bần bật, con dao tuột khỏi tay. Tôi thấy dáng mẹ lấp ló sau vườn. Nhưng người đau khổ mà thằng anh khốn nạn của tôi ám chỉ không chỉ có mẹ tôi. Đó là nàng, vợ sắp cưới của tôi. Anh đã phá nát tất cả những gì đẹp đẽ nhất mà cuộc đời vốn dĩ dành cho tôi. Lúc tôi biết ra thì đã quá muộn màng. Nàng có thai. Cái thai ấy là cháu tôi, nó gọi tôi bằng chú. Trời ơi!
Dẫu bẽ bàng, dẫu cay đắng và không có cách chi cho tôi đối mặt với sự thật, nó trần trụi, nó kì cục đến mức tàn nhẫn. Dẫu vậy, tôi vẫn phải cưới nàng ngay sau đó để bảo vệ đứa cháu ruột của mình, cũng là bảo vệ nàng khỏi miệng lưỡi thế gian. Mẹ tôi khóc, khóc nhiều lắm. Còn có thể làm gì hơn chứ, ngoài khóc!? Tôi lầm lũi cho qua ngày đoạn tháng, còn có thể làm gì hơn chứ, ngoài im lặng!? Nàng không chịu nổi, thằng bé tròn một tuổi thì nàng ôm con đi. Còn có thể làm gì hơn được nữa!? Dù tôi có nói tha thứ một vạn lần thì cũng không thể xoa dịu cảm giác tội lỗi trong nàng được. Mà thực ra tôi cũng không cao thượng hay từ bi được đến thế. Không bao giờ có thể quay lại ngày tháng trước kia. Tôi biết nàng đi đâu nhưng chẳng tìm. Nàng cần phải thoát ra khỏi cảnh sống này, không gian này, hoạ may mới bình tâm mà nuôi con được. Tôi cũng vậy, nhưng tôi chẳng đi đâu được nữa. Mẹ tôi ngã bệnh từ hôm nàng bỏ đi, đang khỏe mạnh rắn rỏi mà chẳng mấy chốc đã già xọp và lú lẫn. Nhiều khi tưởng tôi là anh Hai, bà chạy tới ôm khóc ngon lành. Những lúc như thế, tôi vừa thương vừa giận. Thâm tâm tôi vẫn oán trách mẹ, rõ ràng anh Hai thành ra như thế là có phần lỗi của mẹ. Ngày tháng ấy nhiều khi tôi ước làm sao cho anh tôi chết, chết bờ chết bụi, chết sông chết suối, chết đầu đường xó chợ… chết cách nào cũng được, chết cho tiêu tan cái sự khốn nạn của anh.
Nhưng cuộc đời có cái gì như ý tôi đâu, người ác sống lâu, thiên hạ bảo thế. Anh Hai tôi chẳng những không chết mà còn béo phây phây, bao năm bặt vô âm tín, bỗng dưng trở về mang theo một người đàn bà bảo tôi phải gọi là chị dâu. Tôi cắm con dao xuống trước mặt anh Hai và bảo cái nhà này có tôi thì không có anh, có anh thì không có tôi. Anh Hai cười, dắt chị dâu lên thị trấn. Tôi đã không còn là thằng em khù khờ năm nào nữa, tôi biết sẽ chẳng có điều gì tốt đẹp mà lại đến từ cái con người ấy nhưng không hình dung nổi những toan tính của anh. Mấy tháng sau thì vỡ lẽ. Anh về bán đất. Gần phân nửa đất tổ tiên hương hỏa. Tài thật, anh cứ đi biền biệt nhưng vẫn biết người ta đang mở khu công nghiệp, mở đường quốc lộ gần cạnh hông nên trở về lúc đất đai bắt đầu sốt. Giỏi ăn, giỏi nói, giỏi được lòng thiên hạ, anh tôi làm gì mà chẳng thuận lợi, đất đó cứ bán như chẳng còn ai trong cái nhà này tồn tại nữa. May mà mẹ tôi đã lẫn không còn biết gì. Mẹ cũng không biết ngày tôi bỏ đi. Tôi nói rồi, cái nhà này có thằng anh thì không có thằng em hoặc ngược lại. Tiền bạc, của cải nó không bao giờ cho ai một đáp án cuối cùng. Cái hôm mà anh Hai trở về giành quyền nuôi mẹ lẫn quyền chăm lo hương hỏa tổ tiên, lúc mà anh bô bô nói chuyện bổn phận của thằng con trưởng, cũng là thằng cháu đích tôn trong gia đình, tôi cá là tôi đã muốn làm một cái gì đó vô cùng khủng khiếp. Nhưng mà tôi đã kịp kìm lại, một ý nghĩ trong khoảnh khắc cùng cực của nỗi uất hận dồn nén hơn nửa cuộc đời khiến tôi kịp dừng tay. Tôi không làm gì nữa cả. Cuộc đời này tôi còn gì để mất nữa chứ và cần đéo gì nữa chứ. Tôi sẽ ra đi. Tôi quyết định sẽ ra đi. Sẽ chong hai con mắt này lên mà coi anh bị đời trả báo. Nhân quả nhãn tiền, tôi không tin có cái kiếp sau nào để mà anh phải chờ tới đó. Tôi không tin anh có thể thanh thản mà nhắm mắt chết. Tôi nói với anh: đáng ra tôi có thể làm cái chi đó thật khốn nạn cho xứng với anh, giết người hay đốt nhà chẳng hạn, nhưng tôi sẽ không làm, tôi sẽ cầu cho anh sống lâu, sống dai, sống nhăn răng ra đó mà lãnh cho hết phần quả báo của mình. Rồi sẽ có ngày anh hối hận, sẽ có ngày anh thấy lương tâm mình cắn rứt, sẽ có ngày khi cận kề cái chết, anh muốn một lời tha thứ mà không được. Tôi có chết đi sống lại cũng không bao giờ tha thứ cho anh. Và cho đến chết, anh cũng sẽ không được gặp con trai của mình. Tất cả những gì anh cần biết để thấy mình khốn nạn đến cỡ nào, tôi đều nói cho anh rõ. Khi ấy tôi vừa biết nàng đã chết sau một cơn bạo bệnh nơi xứ người. Tôi muốn anh phải sống mà nhớ lấy, mà khắc ghi, mà chết đi cùng với tội lỗi của mình. Phải nhớ cái ngày ấy, ngày tôi không một bộ quần áo rời khỏi nhà, bỏ lại cho anh tất cả, sau khi anh đã cướp đi tất cả, tất cả của thằng em này. Tôi ra đi chỉ để lại một thứ duy nhất. Một lời nguyền.
Và anh Hai tôi đã chết như thế thật. Như những gì tôi tưởng tượng cho anh. Tôi chẳng làm gì cả, đó là cuộc đời anh chọn lấy. Đó không phải là tất cả, không phải chuyện tôi muốn nói. Không phải thế.
Cách đây mấy năm, tôi bất ngờ nhận được tờ thư của anh Hai. Tôi luôn có cách để biết anh sống thế nào ở quê nhưng tôi giấu biệt tin tức của mình, không một lần về lại nơi ấy kể cả khi biết mẹ mất. Chẳng có gì bất ngờ cả, anh viết toàn những lời ăn năn, xin tôi cho anh gặp một lần, và xin được gặp con trai trước khi chết. Anh không còn nhiều thời gian, trước khi chết chỉ mong được toại nguyện hai việc ấy. Lá thư anh nhờ người chép hộ trên giường bệnh, họ bảo đã là giai đoạn cuối. Anh nói cứ như chúng tôi vẫn là anh em dù cho chuyện có xảy ra thế nào đi nữa. Tôi biết thế nào ngày này cũng tới, nhưng tôi không hả hê mà chỉ thấy lòng như ai xát muối. Xót lắm. Anh Hai cũng khá lắm, không biết đã thuê mướn ai bỏ ra bao nhiêu tiền để dò la cho ra địa chỉ của tôi. Tôi không hồi âm, dĩ nhiên. Tôi nhận thư thêm mấy lần nữa thì biết anh yếu lắm rồi, bệnh viện trả về nên vợ con anh thuê phòng trọ nhốt riêng anh ở đó chờ thời khắc chung cuộc của một cuộc đời. Một bữa, tôi bất ngờ thấy số lạ gọi đến, nghe ra thì là người được con anh thuê để trông nom cha mình, tôi tắt máy ngay khi nhận ra giọng nói yếu ớt của anh trong điện thoại. Anh chẳng còn được mấy ngày nhưng anh phải biết là tới chết anh cũng không được tha thứ đâu. Không đời nào. Không bao giờ cả.
Ngày anh chết, tôi cũng nhận được điện thoại. Cái người ấy, người được thuê để trông nom dọn dẹp cho anh những ngày cuối cùng ấy, chị ta biết hết mọi chuyện giữa chúng tôi. Gần như vậy. Chị ta khuyên tôi nên về tiễn đưa vong linh cái con người tội lỗi ấy, một đoạn cuối cùng để sau này đỡ hối tiếc. Người chết thì đã chết rồi nhưng người sống vẫn còn phải sống, dằn vặt một hồn ma nó khổ lắm, tôi chẳng hiểu chị ta có ý gì khi nói những điều này nhưng tôi đặt vé xe ngay sau đó.
Nhưng đây không phải là tất cả những gì tôi muốn nói. Điều tôi muốn nói là tại sao, tại sao tôi lại thấy lòng mình như chất đầy đá tảng khi người ta lấp đất vĩnh viễn chôn vùi anh Hai tôi.
Ai mà muốn mình có người anh Hai như thế. Và ai mà ngờ!
Cái con người tội lỗi ấy vừa mang theo tất cả tội lỗi xuống mồ, hẳn là vậy rồi, tất cả dưới ba thước đất. Tội lỗi rồi có thối rữa ra như thân xác anh tôi? Tôi không biết, dù sao thì tôi cũng đã mong cho cảm giác tội lỗi, nếu có, thì hãy thật nặng nề, hãy như trái núi đè lên thân xác anh lẫn linh hồn anh nữa. Nhưng anh Hai tôi chết rồi. Bây giờ nó đang đè lên tôi. Anh Hai tôi đã làm ra bao nhiêu chuyện, còn tôi, tôi chẳng làm gì cả ngoài việc từ chối mọi cơ hội để tha thứ cho anh. Vậy thôi mà sao lòng tôi nặng trĩu. Sao nó đè lên tôi? So với tội lỗi của anh thì sự cố chấp của tôi có phải chỉ là một thái cực khác của vấn đề?
***
Xe đỗ lại bên vỉa hè. Tôi xuống xe. Lấy hành lí. Vào nhà.
“Ba, con có bác thật hả ba? Sao chưa bao giờ ba kể? Bác Hai đi rồi hả ba?".
“Ừ".
Tôi thả hành lý xuống sàn, hai chân tự động khuỵu thụp xuống, người đổ thừ ra trên ghế.
“Bác Hai là người thế nào hả ba? Sao chưa bao giờ ba kể?"
“Đó là… là anh Hai của ba. Đó là… là một người bình thường như chúng ta".
L.H
Nguồn: Văn nghệ Đồng Nai số 87 (Tháng 5 năm 2025)