6 giờ sáng. Chiếc đồng hồ O-do cổ gõ binh boong, chầm chậm. Bà Báu vẫn ngồi nguyên, bất động trên ghế sa-lon, nhìn chăm chăm ra cửa chính. Ngày nào cũng vậy, từ hơn hai năm nay, bà ngóng ông Báu đi thể dục trở về. Ông Báu không bao giờ về nữa. Ông chết trong đợt dịch Covid. Nhưng bà vẫn đợi…
Bà Báu ngồi im như pho tượng. Căn biệt thự rộng mênh mông, lặng phắc. Giờ này, con trai, con dâu và đứa cháu nội của bà vẫn đang say ngủ. Phải tầm bảy giờ con dâu bà mới trở dậy, trang điểm, rồi ra ngoài tập gym, nhảy nhót, chợ búa… Còn con trai và cháu bà thì vô chừng. Đã thành nếp.
Bây giờ mới hơn 6 giờ. Bà Báu phải ngồi như vậy cả tiếng đồng hồ nữa. Bà chẳng biết làm gì ngoài việc ngồi đó và chờ đợi. Mọi việc có thể làm, bà đã làm từ sáng sớm. Bà ngồi đó, liu thiu nửa tỉnh nửa mê.
- Sao mẹ lại tha dép vô nhà?
Có tiếng hỏi, làm bà giật mình choàng tỉnh.
- Ờ… Ờ… Mẹ quên. Bà lập bập trả lời, như cái máy.
Con dâu bà dậy từ lúc nào, đang đứng bên cạnh, vừa ngáp, vừa xỉa xói nhìn. Lần nào cũng quên. Quên. Con đã nói với mẹ bao nhiêu lần rồi. Sáng nào mẹ cũng lội ngoài vườn chán rồi tha dép vô nhà. Đất, cát… Bẩn hết. Lại khổ thân con phải lau dọn. Mẹ lau ư? Thôi con lạy bà. Chó liếm cứt lá tre. Bà để nguyên đấy cho con nhờ, đi chợ về con lau.
Bà ngồi đực mặt. Ngơ ngáo.
… Có tiếng bước chân huỳnh huỵch đi xuống cầu thang. Bà Báu biết bố con thằng Thành đã dậy. Bố trước, con sau, cả hai đi thẳng ra cửa, ngang qua bà, không một lời chào hỏi. Cứ như không có bà ngồi đó. Đến giờ chúng ra ngoài ăn sáng. Phở, cháo, bún… Dãy hàng quán trước cửa nhà bà sáng nào cũng tấp nập. Bố con thằng Thành cứ việc ra đó, thích gì ăn nấy. Cái Hiền, vợ thằng Thành sẽ trả tiền sau. Chủ quán đã quen. Chán chê, lại ra quán café ngồi, có khi đến tận trưa mới về ăn cơm. Con thằng Thành, thằng Công, cháu nội bà mới ba tuổi. Suốt ngày mải mê với cái ipad mẹ nó mua cho nên ngồi ở đâu, lâu mấy cũng được. Từ ngày có cái ipad, nó hầu như quên hẳn bà nội.
Bà Báu không bao giờ ăn sáng ở ngoài. Ngày xưa, hồi còn trẻ vợ chồng bà lo làm ăn, phần do tiết kiệm, nên không dám ăn, chẳng biết bát phở là gì. Từ khi giàu có, một phần do thói quen, phần lo ăn ở ngoài không đảm bảo vệ sinh, nên rất hiếm khi ông bà ăn ngoài quán sá. Vợ chồng bảo nhau, đồ ăn họ nấu ngon là do nêm nhiều đường với bột ngọt, không tốt lành gì, có hại cho sức khoẻ. Thôi thì ở nhà thích ăn gì nấu lấy, không ngon nhưng tốt hơn. Từ ngày ông Báu mất, bà tuyệt đối không ra ngoài. Chén cơm nguội, gói mì tôm… xong bữa. Thậm chí, nhiều bữa bà nhịn không ăn.
Căn biệt thự này do vợ chồng bà xây cất. To và lộng lẫy. Bán cổ, bán kim, nổi bật hẳn trong khu phố, vốn rất nhiều những căn nhà ống vừa cao vừa hẹp bề ngang, liền kề nhau. Vợ chồng bà chọn mua được mảnh đất bìa, có đến ba mặt tiền đường nên nó không chỉ rộng mà còn rất thoáng. Căn biệt thự là kết quả của bao nhiêu năm vợ chồng bà lao tâm, khổ tứ phấn đấu làm nên. Ban đầu, nó được sơn màu trắng, nhưng sau khi ông Báu chết, bà kêu thợ về sơn lại màu xám. Nói vậy nghe có vẻ dài lâu, thực ra tất cả mới chỉ năm năm. Biệt thự khánh thành hai năm thì ông Báu chết.
Không biết có phải vì buồn mà từ khi chồng chết bà Báu đâm ra lẩn thẩn. Vợ chồng bà gắn bó với nhau từ hồi còn trong quân ngũ, trải biết bao khó khăn, gian khổ bên nhau. Vì lý do sức khoẻ, bà xin giải ngũ sớm, về nhà bán buôn. Với tất cả vốn liếng tích cóp được của hai vợ chồng, bà mở một cửa hàng bán vật liệu xây dựng. Ngã tư Vũng Tàu là nơi tập trung dân cư tứ xứ, nhiều nhà máy xí nghiệp… Có lẽ nhờ vậy mà công việc làm ăn của bà rất phát đạt. Một, rồi hai, ba cái cửa hàng của bà Báu được mở ra chỉ trong thời gian rất ngắn. Có tiền bà mua thêm đất để mở rộng kho bãi. Giá đất lên cơn sốt ầm ầm, vậy là vợ chồng bà trở nên giàu có. Nhiều tiền, nhiều đất, nhưng ông bà rất tằn tiện. Gia đình vẫn sống trong căn nhà cấp bốn bộ đội cấp từ thời xa xưa. Ông Báu về hưu vẫn tham gia công tác ở Hội cựu chiến binh phường, nên bận rộn như ngày còn tại ngũ. Mãi đến tuổi bảy mươi, ngưng hết mọi công việc, ông bà mới quyết định xây cái biệt thự này để dưỡng già. Cũng là để “rải thính", nói theo cách của bọn trẻ trâu, câu vợ cho thằng Thành.
Tiền sông, bạc bể, nhưng vợ chồng bà luôn buồn phiền. Ông bà chỉ có mỗi thằng Thành, là con duy nhất. Nhưng không nên người. Nó được sinh ra trong ống nghiệm. Không biết có phải những tháng ngày gian khổ trong quân ngũ, với rừng thiêng nước độc đã làm mất đi khả năng sinh sản của ông bà. Bà lấy ông hồi mới 22 tuổi, mãi khi bà 37 tuổi vẫn không sinh được mụn con nào. Cuối cùng, ông bà quyết định làm thụ tinh trong ống nghiệm. Trục trặc mãi đến lần thứ tư cái thai mới đậu. Thằng Thành ra đời trong niềm hân hoan của vợ chồng bà, mặc lời ong tiếng ve chỗ này, chỗ kia, của những kẻ thối mồm, thối miệng. Yếu nên thằng Thành lớn lên rất khó khăn. Cả hai ông bà ra sức chăm bẵm nó mới sống được. Càng lớn, sức khoẻ của nó khá hơn. Nó yếu nhưng cơ thể phát triển đầy đủ, không bị dị tật bẩm sinh. Thể chất thì ông bà có thể đổ tiền bạc chăm lo cho nó, nhưng trí tuệ thì không. Từ nhỏ thằng Thành đã có biểu hiện thiểu năng. Bọn trẻ con trong khu phố gọi nó là “Thành ngố". Nó học đến 3 năm vẫn không qua được lớp một. Đến năm lớp năm thì nghỉ học. Từ khi đó, cơ thể nó bắt đầu phát phì. To cao lừng lững. Không ngừng tăng cân. Đến năm mười bảy tuổi, thằng Thành đã nặng trên một tạ. Là vậy, nhưng hầu như mọi việc lớn nhỏ ông bà đều phải làm giúp nó. Việc trong nhà thì bà làm, ra ngoài thì ông giúp. Ông Báu gầy yếu như cọng rơm, nhưng từ việc đi thể dục, đi chơi, hay đi khám bệnh… tất tật, lúc nào cũng chở thằng Thành, như đô vật Su-mô, dặt dẹo trên chiếc xe máy cũ.

Minh họa: Lê Trí Dũng
Thằng Thành lấy vợ. Chuyện thật như đùa, xôn xao cả khu phố. Nó thì làm ăn gì được mà lấy vợ. Biết gì mà lấy? Lấy cho ông Báu thì có. Xì… Ông Báu cũng chẳng còn nước non gì. Ông Báu mà còn “xơ múi" được đã tốt. Con cháu gì thì cũng là giống nòi. Đằng này, mãi mới đẻ được thằng Thành, mà lại thụ tinh trong ống nghiệm. Chắc gì đã phải con ông ấy? Thụ tinh ống nghiệm mười đứa, chín đứa dở người, dở ngợm…
Thiên hạ rỗi chuyện, độc mồm. Kệ. Dù gì thì ngày cưới vợ của Thành đã ấn định, thiệp mời đã phát. Vợ thằng Thành không xa lạ. Nó tên Hoa, ở trong khu tập thể địa chất, cách nhà bà vài dãy. Bố mẹ nó chết sớm. Ba chị em ở với nhau trong căn nhà cấp bốn rộng chừng năm chục mét vuông, cơ quan cấp cho bố nó mấy chục năm trước. Cả ba chị em đều là công nhân. Cả ba đều quá lứa, nhưng chưa có chồng. Mặc cảm nghèo, xấu, nên ế. Hoa chừng hai tám, hai chín tuổi, là em út. Không đẹp, không xấu. Hiền lành và khoẻ mạnh. Vợ chồng bà Báu rất ưng. Đám cưới tại gia. Chỉ mươi bàn tiệc. Khách khứa chủ yếu là người nhà hai họ, với mấy gia đình thân quen loanh quanh. Cũng dựng rạp, kết cổng hoa, dàn nhạc… Rất vui. Vui nhất là ông bà Báu. Tươi cười dắt tay con trai, con dâu đi chúc rượu cùng các bàn. Thằng Thành mặt cứ nghệt ra, chẳng hiểu vui hay buồn…
Năm tháng sau ngày cưới, vợ chồng thằng Thành ly hôn. Chuyện gì xảy ra chỉ có mấy con cóc dưới gầm giường biết. Riêng chuyện bà Báu chỉ cho cô Hoa một chỉ vàng, gọi là bồi thường, thì cả khu phố biết. Người ta kháo nhau, Hoa làm dâu, làm vợ chẳng khác nào đứa ở. Vẫn đi làm công ty, vừa phải phụcvụ cơm nước, phụ việc nhà cho gia đình chồng. Tiền lương hàng tháng phải đưa cho mẹ chồng quản lý. Mọi việc chi tiêu từ chợ búa, thuốc men cho thằng Thành, mua sắm quần áo, đồ đạc… đều một tay bà Báu.
Sau Hoa, trong vòng hai năm, bà Báu tuyển và cưới cho thằng Thành thêm bốn đời vợ nữa. Người ta bàn tán, Thành ngố vậy mà ngon. Hic. Mà cũng phải, của nả nhà bà như thế, để cho ai? Ông Báu chết rồi, thằng Thành mắc chứng béo phì, vừa bị bệnh tim mạch, vừa tiểu đường… Rồi cũng “đi" sớm. Nên bà phải ráng tìm cho được đứa cháu nội.
Hiền là vợ thứ năm. Hiền ở tận ngoài Bắc Giang, cùng quê với bà Báu. Nghe nói là người nhà bà mai mối. Xì… Mật đó mà húp! Tưởng dễ mà đào mỏ được của bà Báu à? Cứ xem mấy cô vợ trước của thằng Thành thì biết. Cô nào cũng ham giàu, liều mạng nhào vô. Rồi tất cả đều phải ra đi, tay trắng lại hoàn trắng tay. Người ta lại bàn tán. Thiên hạ sao biết được nỗi khổ của vợ chồng bà? Cả cuộc đời vợ chồng bà phải vất vả, khó nhọc, bóp mồm, bóp miệng, nhịn ăn, nhịn mặc mới có được gia sản như ngày nay. Bà biết rõ mười mươi, tất cả lũ con gái nhào vô làm vợ thằng Thành đều nhắm vô của cải, nhà cửa của bà, chứ nào yêu thương gì con bà? Bà cũng biết rất rõ, thằng Thành khó có thể làm chuyện gối chăn, vợ chồng. Nhưng bà vẫn rất hy vọng. Hy vọng nó sẽ sinh cho bà đứa cháu nội để bà giao lại khối tài sản mà ông bà đã gây dựng. Để bà có thể yên tâm nhắm mắt xuôi tay. Bà làm khó và keo kiệt với tất cả những đứa con dâu, là để dằn mặt chúng, không để chúng lấy mất tài sản của con trai bà. Bà biết, một khi bà chết, con trai bà sẽ bị cho ra rìa, nếu không có đứa cháu nội nối dõi!
Thực ra vợ chồng bà Báu cũng không đến nỗi quá keo kiệt. Bà Báu có hai người em gái ở quê, làm nông, nghèo sấp mặt. Bà thương, đưa cả vào, cho mỗi gia đình một căn nhà cấp bốn, ở gần nhà ông bà. Lại cấp thêm vốn liếng cho cả hai để buôn bán, chợ búa. Ngặt nỗi, cả hai cô đều đông con, nên làm không vừa nhai, mãi không khá nổi. Nhưng như vậy cũng là quý hoá rồi, bà không thể nào lo cho hết! Suy cho cùng, lúc nghèo khổ ông bà chưa từng được ai giúp đỡ, chưa được ai cho một xu, một cắc! Tuy vậy, con cái của cả hai gì đều khoẻ mạnh, được học hành đầy đủ, không như thằng Thành của bà. Ông trời công bằng, không cho không ai thứ gì, cũng không lấy hết mọi thứ của ai…
Hiền khác tất cả những cô kia. Việc đầu tiên, trước khi ký vào giấy kết hôn, Hiền buộc bà Báu phải chuyển 2 tỉ đồng vào tài khoản của cô. Cùng với những thoả thuận miệng, mà tất cả đều được bà Báu chấp nhận. Dù gì thì Hiền cũng đã làm vợ thằng Thành ba năm và sinh ra được thằng Công, cháu nội của ông Bà. Thiên hạ thối mồm xì xào, chắc gì đã là con thằng Thành. Trẻ sinh ra từ ống nghiệm thì biết con ai? Con ai thì chỉ có Hiền biết! Được cái thằng bé khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, dễ thương. Cá nhà ai cũng được, vô ao nhà mình là của mình. Ông Báu ngậm ngùi nói với vợ. Ông rất yêu thương thằng Công. Lúc nào cũng cưng nựng gọi nó là “cháu nội của ông". Nhưng ông không ở với đứa cháu của mình được lâu. Một năm sau khi thằng Công ra đời, ông chết.
Giờ thì mọi thứ đã tuột khỏi tầm tay bà Báu. Người đàn bà thép trong bà bỗng dưng biến mất. Bà trở nên lẩn thẩn, lúc nhớ, lúc quên. Không còn khả năng quản lý tài sản, tiền bạc. Càng không có khả năng quản lý con dâu. Giờ thì Hiền muốn làm gì thì làm, thích đi đâu thì đi, muốn về khi nào thì về. Thậm chí, thích thì nó cho bà ăn, không thích, bỏ đói.
… Ngồi chán, bà Báu lấy chổi quét nhà, rồi xách nước lau, chùi. Nước tẩy sủi bọt xanh lè, lênh láng. Bà còng lưng cố đẩy cái cây lau nhà, vừa thở dốc. Mồ hôi, nước tẩy rửa bắn vào mặt, vào người bà ướt rượt. Nhoe nhoét. Sàn nhà rộng mênh mông, bà Báu dù rất cố gắng cũng chỉ lau được một góc nhỏ. Mệt. Bà lại ngồi thở. Lại lau. Lại ngồi nghỉ. Lại liu thiu ngủ…
Hiền về. Tay xách túi đồ ăn mua sẵn. Vừa bước vô nhà, trượt chân, ngã chổng vó. Cơm, canh, thịt cá… bắn tung toé.
- Trời đất ơi. Có khốn nạn thân tôi không hở trời?
Bà Báu giật mình, choàng tỉnh. Ngơ ngác nhìn.
- Đã bảo bà đừng lau nhà. Sao bà không nghe? Hiền vẫn nửa ngồi, nửa nằm, dạng te chân dưới sàn nhà, nhìn như muốn ăn tươi nuốt sống bà Báu. - Tui vừa mới làm tóc, trang điểm để đi đám cưới, lại phải ghé mua đồ ăn trưa cho các người… Giờ thì biết làm sao đây?
- Mẹ quên… Mẹ quên… Bà Báu lắp bắp, vẻ mặt sợ hãi.
- Quên gì mà quên. Bà điên thì có…!
Hiền băm bổ, rồi đứng dậy vùng vằng đi vào trong, bỏ lại bà Báu với vẻ mặt đau khổ, cặp mắt vô hồn nhìn chăm chắm sàn nhà cơm, canh bung bét…
Lúc lâu sau, Hiền trở ra, váy áo xênh xang sặc sỡ, mặt hoa da phấn… Đi ngang qua bà Báu, vẫn ngồi đực trên ghế salon, Hiền chăm chú ngó nghiêng, cẩn thận dò từng bước chân, tránh đám cơm, canh, thịt cá… vương vãi trên sàn nhà.
Bố con thằng Thành vẫn chưa về.
Căn nhà rộng thênh, im phắc.
Bà Báu rời ghế, bò xuống sàn nhà. Chậm chạp, bà nhặt nhạnh những hạt cơm, miếng thịt đẫm nước canh, nước lau nhà bầy nhầy, bỏ vào mồm nhai, nuốt. Bà Báu chợt nhớ, từ sáng tới giờ bà chưa ăn gì.
N.T.S
Nguồn: Văn nghệ Đồng Nai số 88 (Tháng 6 năm 2025)