Cơn dông chiều vừa tạnh cũng là lúc ông Thanh bước vào cổng doanh trại. Trung tá Hà đứng sẵn ở đó đón vào phòng khách đội tìm kiếm, quy tập, hồi hương hài cốt liệt sĩ.
Phòng khách ngay gian chính, có chiếc bàn và mấy chiếc ghế gỗ đơn sơ. Hà dẫn ông Thanh vào phòng kê sẵn giường đơn. “Bác sẽ nghỉ tạm đây nhé!". Cử chỉ chu đáo thân tình ùa về, ông Thanh thấy lòng rưng rưng. Ông khẽ khàng cởi chiếc ba lô cũ đặt xuống, vuốt phủi những hạt mưa dính ướt trên nắp đã sờn, mở ra lấy mấy tờ giấy giới thiệu.
- Những giấc mơ vắt kiệt sức lực tôi. Đắn đo mãi, lần này tôi vào đây mong đơn vị giúp đỡ. Ông Thanh vừa làm vừa nói.
- Qua điện thoại bác trao đổi, anh em trong ban chỉ huy bàn bạc và báo cáo lên cấp trên rồi. Cấp trên sẽ làm việc với các cơ quan hữu quan về các thủ tục cần thiết của nước ta, nước bạn và sẽ hướng dẫn cụ thể cho chúng ta trong chuyến đi sắp tới. Chúng cháu chờ bác vào, phối hợp với đơn vị bạn, chúng ta nhất định sẽ đi tới nơi, đưa được các chú, các anh về bên này. Hà cho biết.
Ông Thanh vừa bồn chồn, khích lệ. “Cũng chưa biết kết quả sẽ ra sao. Tôi thấy các anh bây giờ làm việc bài bản mà chu đáo quá".
- Thời nào cũng vậy. Đó là lương tâm, trách nhiệm và là nhiệm vụ Đảng giao. Công việc này thật sự khó khăn. Nếu có những người lính chinh chiến năm xưa còn sống giúp, công việc anh em bọn cháu sẽ đỡ đi nhiều. Bây giờ mời bác chuẩn bị ăn tối rồi nghỉ ngơi cho lại sức.
Buổi tối, lên giường nằm, tiếng quạt trần chạy đều đều. Tàu xe hơn hai ngày đêm từ Bắc vào Nam mới tới đây, tưởng nằm có thể ngủ ngay nhưng ông Thanh trằn trọc mãi không vào giấc được. Ngồi dậy, ra sân châm thêm điếu thuốc. Rít mấy hơi. Đắng ngắt. Lúc vào, vẫn thấy anh em Hà ngồi làm việc. Tấm bản đồ trải rộng trên mặt bàn, tất cả dường như đang chăm chú tính toán thời gian, xác định nhiệm vụ và những việc cần làm ngay.
Ông Thanh không muốn đánh động anh em, nhẹ nhàng vào giường nằm. Vừa chợp mắt, giấc mơ hang móng cọp dưới đồi cỏ đỏ vùng rừng núi Pailin năm ấy hiện về. Tai ông Thanh nghe rõ tiếng muỗi vo ve, tiếng bụp bụp, “chậc", “hú" như là tiếng vồ đập đầu dân lành của lũ Angka áo đen khát máu, hay tiếng lũ dơi khổng lồ cắn xé nhau, cũng có thể là tiếng than vãn âm hồn. Ông Thanh nghe những âm thanh này vì nó rất gần, càng già nghe càng gần trong lỗ tai. Người ta nói người già thường nghễnh ngãng, riêng ông chẳng hiểu sao lớn tuổi nghe càng rõ. Trong mơ, ông thấy vô số những băng đạn đã rỉ sét, có vải áo quần kaki, bi đông nước thủng lỗ chỗ, những đôi dép nhựa sứt quai, những đôi giày vải chỉ còn khuy cài, những chiếc hòm đạn rách nát, vài cái bát ăn cơm vương vãi khắp ngõ ngách hun hút trong hang. Vài người ngồi tựa lưng vào hang đầu ngoẹo bên ba lô, súng vẫn ở tư thế sẵn sàng nhả đạn. Vài người nữa nửa nằm nửa ngồi như đang nghỉ mệt sau trận chiến đấu trở về.
Cũng giống giấc mơ những lần trước, Diềm đưa Thanh trở lại hang móng cọp với cách nhanh nhất. Nhanh như khi Thanh đi lấy nước dưới chân đồi cách đó hơn năm giờ đồng hồ mới đưa được nước về cho trung đội uống để cứu chữa thương binh. “Ùng", “oàng!". Thanh như chết lặng. Đúng rồi. Đây là tiếng bom nổ. Rồi tiếng mìn KP2 liên hoàn. Sau mấy tiếng nổ mìn KP2 dây chuyền, tiếng DKZ75 phá lô cốt dọn bãi, tiếp đến đạn AK tạch tạch đùng đùng rạo cả một khu rừng. Chim chóc bay loạn xạ. Không cần nghĩ nữa. Chạy. Thanh phải chạy thật nhanh về với đơn vị. “Hang bị địch đột nhập, bao vây tấn công rồi!". Thanh cắm cổ chạy dưới suối lên. Chợt sực nhớ là phải hết sức cẩn thận kẻo vướng mìn dây. Bọn Pốt vô cùng quỷ quyệt, tàn ác. Chúng cài mìn khắp mọi nơi giăng bẫy trên đường bộ đội ta đi, nhiều vô số kể. Bờ suối, lối mòn, chân cầu, cây cổ thụ… nơi nào cũng có. Có dấu vết bộ đội ta đóng quân hoặc hành quân qua thì ắt hôm sau có mìn các loại cài vào. Hễ phát hiện thấy dây rợ như dải chỉ màu xanh lá thì đó là cụm mìn lớn chúng bố trí bẫy ta. Ít nhất cũng là loại KP2, K58 hoặc 56 - 2A. Nguy hiểm nhất là loại mìn 2A đấy. Đã dính là cụt, là róc thịt nhồi thuốc đen ngòm, xương lòi trắng hếu, mất hạ bộ, vỡ bụng vỡ ngực. Đã găm vào thịt là vô phương cứu chữa vì trong nó chứa nhiều thuỷ ngân.
Diềm vẫn nằm đó thiêm thiếp bên đồng đội. Thanh ôm ghì lấy vai Diềm. “Em còn trẻ quá Diềm ơi!". Nước mắt Thanh trào ra nóng hổi rơi lên đôi gò má gầy gò nhô cao xám xịt cháy sém vì thuốc nổ ám muội. Diềm như hồi tỉnh lại, thều thào. Trong từng câu nói ngắt quãng của Diềm, Thanh biết Diềm đang nói về ngày ra đi ở Bàu Châu É. Bước chân của đoàn đã vượt biên giới, đi khắp các cánh rừng, làng mạc phum sóc trên đất Campuchia từ Bắc xuống Nam rồi quay ngược lại. Và bây giờ là hang chân đồi cỏ đỏ vùng rừng núi Pailin thuộc về khu vực ngã ba Ba Biên, một ngã ba chết chóc không nơi nào có trên trái đất này.
Gần bảy năm trôi qua, Diềm nhắc nhớ dòng suối Chết Trôi ở PuaSat, nơi ấy có mấy người anh công an vũ trang đang bơi gọi Diềm đến giao nhiệm vụ. Diềm nhắc tên từng người đã hi sinh của đại đội trong gần ngàn trận chiến đấu đã qua. Diềm nói bình thường em chẳng nhớ tuổi nhớ tên ai cả, mà sao lúc này tất cả lại ùa về trong kí ức em. Họ tên, tuổi tác, quê quán từng người rất rõ, ai cũng trẻ măng, lành lặn. Không bị băm lòi ruột lòi gan đứt chân tay như khi gom nhặt trong những trận vướng mìn, da dẻ không phừa phựa lủng bủng xanh do sốt ác tính, mà hồng hào tươi rói như người đủ triệu triệu hồng cầu.
Diềm lại kể mối tình đầu của mình. Người em gái tên Loan nhà cạnh nhà Diềm ở quê. Khi chia tay, Diềm mười bảy tuổi rưỡi, Loan đã mười lăm. Cứ nghĩ chỉ là em gái cùng làng người Hải Hưng, đâu ngờ… Loan đang mong chờ Diềm trở về, chỉ cần anh trở về thôi, chúng ta sẽ làm đám cưới. Diềm nói em đã được gặp mẹ, mẹ vẫn trẻ đẹp như hồi xưa, mái tóc mẹ dài chạm gót, da mẹ trắng hồng và môi đỏ chót nhưng tim mẹ đau. Diềm nói ước mơ của mình khi nhập ngũ là làm y tá cứu chữa thương binh. Mai này kết thúc chiến tranh, nếu được sống trở về sẽ cố gắng đi học làm bác sĩ để chữa lành bệnh tim cho mẹ.
Nói đoạn, Diềm khẽ chạm vào tay Thanh: “Anh đưa em về gặp mẹ em đi, về với Loan nữa. Ở đây bắt đầu chuyển mùa khô rồi, em lạnh quá! Anh em ai cũng kêu lạnh quá chừng!". Diềm nói anh Thanh vẫn gương mặt xạm đen ấy. “Cũng may cho anh là đã xung phong vượt rừng xuống suối đi lấy nước. Nếu anh không xung phong đi lấy nước sáng nay, trung đội trưởng phải cử người khác. Cũng may toàn trung đội chỉ còn duy nhất mình anh lúc đó không lên cơn sốt, dù bị thương nhẹ nhưng anh nói cố gắng vẫn có thể cõng được hai can. Nếu anh chần chừ thêm chút nữa, cái hang này… Thôi em không nói nữa. Mà sao dạo này râu ria anh lởm chởm trông lụ khụ thế? Tóc râu anh cũng bạc gần hết rồi này. Anh cũng cười móm mém nữa. Răng rụng hết rồi à? Có lẽ anh em ta ăn cơm độn sạn nhiều quá hay sao? Lính chiến tải gạo mà kém, phải ăn cơm độn sạn nghe buồn cười anh nhỉ?!". Diềm ậc lên một tiếng rồi lịm hẳn. Thanh vuốt mắt lần cuối cho Diềm, lòng buồn mênh mang hơn cả cánh rừng chết Pailin.

Minh họa: Kim Duẩn
Chỉ có Diềm, cậu ấy là y tá đại đội - người hiểu và thương Thanh nhất. Chưa khi nào Diềm chia sẻ cùng ai những nỗi niềm sâu kín trong lòng như nói với Thanh, điều này Thanh rõ. Đều độ tuổi mười chín, đôi mươi như nhau và là lính chiến cả, nhưng Thanh là đồng hương, điềm đạm, lại thường quan tâm người khác. Ở chiến trường K, việc đói ăn, khát uống, thiếu rau, sốt rét ác tính chẳng có gì lạ. Những khi sốt rét, người lính mong câu động viên, một cái sờ nhẹ lên trán khi cơn sốt hoành hành, đắp thêm giùm tấm mền hoặc chiếc áo khi rét run cầm cập, thấy ấm lòng, thấy được vỗ về an ủi.
Bữa hành quân tải gạo vào trung đoàn bộ, Diềm phát hiện đôi chân Thanh phù thũng nặng nên kêu Thanh ngâm nước muối. Khổ nỗi, muối ở rừng này lấy đâu ra? Còn duy nhất bịch muối khô dự trữ để dành cứu chữa, Diềm nói Thanh cũng đang như thương binh nên đun nước ngâm chân cho anh. Nhưng cơ bản vẫn là do thiếu rau thiếu muối nên bộ đội ta mới sinh ra phù thũng nặng và nhiều như thế. Chẳng ai trong số những người lính chiến như Thanh ở đây không trải qua sốt rét, phù thũng. Lòng Thanh nhiều lần muốn làm gì đó để trả ơn. Thế nhưng vừa mới chiều qua bên bờ suối cạn, trên hai chiếc võng toòng teng nằm cạnh nhau, Thanh và Diềm còn thủ thỉ trò chuyện, nay đã kẻ nằm người ngồi.
Thanh biết, lính chiến là thế. Vừa cười nói đấy nhưng rồi lại vuốt mắt tiễn nhau đấy. Đúng. Chiến tranh là ngày nào cũng chôn nhau nhưng chưa tới lượt chôn mình. Chẳng phải mình may mắn mà có lẽ đồng đội đã gánh phần chết để mình được sống mà chôn đồng đội khác. Là lính chiến nhưng đâu chỉ có chiến đấu. Cũng phải ăn phải uống trong khi các phương tiện phía sau không thể đưa gạo, muối, nước lên được. Chỉ còn duy nhất đôi vai bộ đội mang vác theo từng chặng với hàng trăm cây số mới có cái mà ăn, mà uống. Lũ Pốt đó, chúng nó tàn nhẫn không có gì để tả, nhưng thâm độc hơn ở chỗ ngày làm thường dân ngoan như cún, đêm chạy về với đội ngũ áo đen Angka giết dân lành và lính tình nguyện. Thuộc tính hai mặt này ăn sâu bám rễ chẳng ai lạ gì. Trong suốt cuộc chiến, chúng không hề trao trả cho ta một tù binh nào, trong khi ta không những trao trả tù binh mà còn phải chia sớt gạo để nuôi sống chúng.
Thanh và Diềm đều tham gia tải gạo giữa những cánh rừng chết chóc này. Trên vai mỗi người cõng đầy ba lô, thêm ruột tượng, súng, đạn ba băng, lựu đạn ba quả, gạo khẩu phần ăn, cơm nắm của mình… tổng trọng lượng hơn bốn mươi kí lô trên những cung đường rừng chết luôn rập rình. Diềm thì lỉnh kỉnh mang đủ thứ thuốc men, dụng cụ, vai mang thêm súng. Có khi mang giúp súng cho Thanh những đoạn đường dài. Thanh nhớ lắm, để trong lòng, âm ỉ mãi.
Bây giờ, khi tất cả đã nằm ngồi ở cái hang chết tiệt này, trừ Thanh. Việc đầu tiên Thanh phải cởi bỏ hết áo quần thấm máu, lau rửa thật sạch từng người rồi mang mặc lại tươm tất cho anh em. Lính chiến ai cũng có tăng võng trên vai. Nó cũng chính là chiếc hòm chôn bản thân khi ngã xuống. Thay cho họ bộ áo quần mới nhất, lấy chiếc võng dù của họ quấn thật chặt từ đầu đến chân, lại thêm chiếc tăng nữa bọc ngoài cùng, thêm lần nữa quấn buộc chặt lại. Như thế, máu thịt mới không rỉ ra rơi rụng. Như thế, có để dăm bảy ngày vận chuyển từ vị trí chiến đấu để lui về hậu cứ đại đội, đến hậu cứ tiểu đoàn bộ, đến hậu tuyến trung đoàn bộ, anh em vẫn còn có thể chưa bốc mùi nhiều. Chưa khi nào lính chiến quan niệm anh em đang nằm trong cáng lui về hậu cứ là lính chết. Họ vẫn đang cùng nhau hành quân đấy thôi. Chẳng có đám tang nào cả. Không hương khói, cờ đèn kèn trống. Chỉ một lễ truy điệu và những giọt nước mắt nóng ngậm ngùi đau xót tiễn đưa của đồng đội nếu đưa lui được về hậu cứ. Nếu không, họ vui lòng nằm lại giữa những cánh rừng này cho đến hôm nay.
Ông Thanh tỉnh giấc, nhưng mong muốn đưa Diềm và anh em đồng về cứ bám riết lấy ông trong những giấc mơ như thế. Nhiều năm rồi, chính những giấc mơ ấy làm ông hao gầy cả sức lực và trí lực. Kẻng đơn vị báo thức từ lâu, liên lạc đội chạy vào định mời ông dậy ăn sáng nhưng Trung tá Hà ngăn lại. “Em cứ để bác Thanh ngủ thêm chút nữa. Mấy ngày đi đường chắc bác ấy đã không ngủ được!". Đêm qua, Hà biết ông Thanh những lần ú ớ trong giấc ngủ, gọi thành tiếng, kêu tên từng đồng đội năm xưa. Nhiều nhất là gọi: “Diềm ơi! Diềm ơi! Anh đang lên đây!". Như là dưới suối chạy lên đồi? Hay bác ấy gọi Diềm nào đó trên chín tầng mây? Tuy không rõ trong giấc ngủ bác Thanh, nhưng lòng Hà thấy thương cảm vô cùng và nóng lòng nghĩ ngay đến nhiệm vụ của đơn vị.
Trong buổi sáng giao ban, Hà nói rõ. Cấp trên đã đồng ý cho chúng ta xuất phát sớm. Mưa cuối mùa đang rộ, nhưng chúng ta có thêm bác Thanh đi cùng nên phải đi ngay trong mùa này. Nếu để lâu hơn, chẳng những nhiệm vụ chúng ta chưa chắc hoàn thành mà còn làm lỡ việc bác Thanh. Hà muốn xua tan không khí nặng nề, đùa vui: “Anh em mình từng kết nghĩa trong vườn đào lộn hột bên bờ suối cạn năm ấy chắc chưa ai quên". Đúng thế. Bao năm rồi vui buồn sướng khổ có nhau, thầm lặng tìm kiếm, xác định danh tính, quê quán, cấp bậc, chức vụ, đơn vị cho liệt sĩ. Có khi, đào phải hài cốt những kẻ một thời đối địch với ta vẫn phải làm tròn đạo nghĩa con người trong khi liệt sĩ mình không tìm thấy.
Dù chẳng ai muốn có cuộc chiến này nhưng nó vẫn cứ phải diễn ra. Chừng nào trong lòng đất, trong lòng sông suối, trong những cánh rừng chết chóc kia tìm hết được những nấm mộ có hài cốt liệt sĩ mình hi sinh thì công việc mới nhẹ nhàng hơn. Nhưng mà khó lắm. Bao xương máu đồng đội còn nằm rải rác trong các cánh rừng? Ngay cả những thương binh mất chân mất tay chôn lại ở đâu đó, thương binh ấy hiện nay còn sống cũng khó tìm lại được, huống hồ chi những người hi sinh nếu không có thông tin chỉ dẫn đầy đủ?
“Chẳng có ngôi mộ nào chôn những bàn chân". Câu thơ này nhiều người nhớ. Biết trước là gian nan, khổ cực, có thể nguy hiểm đến tính mạng và sức khoẻ, nhưng chẳng nói sao cho hết những nhọc nhằn, vất vả của chúng ta khi đồng đội đang chờ đợi đến đưa họ về cùng! Hãy đặt mình trong hoàn cảnh gia đình có người thân đang đi vắng, đang nằm lại ở rừng sâu núi hiểm nào đó, có thể ngay cả trên đất quê hương mình hay trên đất nước bạn, bao năm tháng vẫn mỏi mòn đợi chờ, hi vọng, mong ngóng tin tức, nỡ lòng nào bây giờ khi đã xác định được vị trí anh em đồng đội đang ở, lại có người dẫn đường đưa lối, chúng ta bỏ mặc họ ở đó mãi sao đặng!
Chuyến xe xuất phát lên đường đi về phía rừng Pailin.
Buổi sáng. Sau hơn tháng luồn những cánh rừng chết chóc năm xưa, từng dãy người nằm nghiêm ngắn phía trước. Phía sau, đồng đội ngước nhìn lên trước trảng rộng chân ngôi đền thiêng. Kết quả tìm kiếm, cất bốc, danh sách, danh tính, quê quán. “Các đồng chí ấy đã được tập kết về đây trong suốt thời gian dài từ giữa cuối mùa mưa đến nay". Phóng viên kịp có mặt để đưa tin về kết quả hành trình xúc động.
Để chuẩn bị cho buổi lễ cầu siêu, tiễn hài cốt những "người lính Quân đội nhà Phật" về cố hương, ngoài Trung tá Hà và đồng đội còn có sự góp công của ông Thanh - một chiến sĩ quân tình nguyện tham gia chiến đấu cùng những người lính đã anh dũng hi sinh và nằm lại mảnh đất này mấy chục năm trời mưa nắng gió sương. “Nếu không đi đến được nơi này, nếu không có bác Thanh, việc tìm kiếm sẽ không biết đến bao giờ mới có thể để quy tập, đưa các chú, các anh về đất mẹ". Trung tá Hà ngậm ngùi trước anh linh liệt sĩ. Những nén nhang cháy, những giọt nước mắt ngậm ngùi, khói nhang trắng bay là là trước trảng rộng mênh mông dưới chân đồi cỏ đỏ. Mùa này, hoa thanh thản, hay hoa tử la lan, cũng là loài hoa cánh bướm đang rập rờn khoe sắc màu sặc sỡ, báo hiệu mùa khô Pailin đã bắt đầu.
Từ nay, xương cốt các anh không còn phải chịu đựng cái rét thấu xương khi màn đêm buông xuống nữa. Từ nay, xác phàm các anh không còn nỗi khát khô cháy sém khi ngày sang mặt trời như hòn than trút xuống mảnh đất này nữa. Từ nay, các anh cũng không chịu cảnh ngụp lặn giữa mùa mưa nước ngập mênh mang những cánh rừng này nữa. Các anh trên đường trở về quê hương.
Đoàn xe trở về qua khỏi đường biên, đi sâu vào lòng đất Việt. Lái xe chăm chú giữ chắc tay lái đi theo hàng thành một vệt dài trang nghiêm. Lá cờ đỏ sao vàng cắm trước đầu xe mỗi chiếc xe phần phật bay trong gió như lời chào trở về quê hương của những liệt sĩ hi sinh bao năm qua nằm lại rừng sâu Campuchia. Hà cũng như ông Thanh và anh em trong đội tìm kiếm, cất bốc, quy tập, hồi hương hài cốt liệt sĩ rưng rưng tan chảy trong một chiều mưa cuối mùa.
H.P
Nguồn: Văn nghệ Đồng Nai số 89 (Tháng 7 năm 2025)