Quan Tham tri bộ Lễ trở về tư dinh sau buổi ngự triều. Tên hầu cận họ Đặng đón ông bằng một vẻ hớn hở khác thường. Bởi vì đây là buổi chầu đầu tiên các quan vào triều không phải mang trang phục đại tang, và còn một điều quan trọng hơn: quan Tham tri chính thức nhận chiếu chỉ của nhà vua chuẩn bị đi sứ sang Trung Hoa. Trời đất có lẽ vì thế mà hửng nắng chan hòa, xua đi cái rét mướt tái tê phủ lên kinh thành từ những ngày đông giá, và đã kéo dài lê thê sầu thảm từ ngày Nguyên đán đức vua Gia Long băng hà. Họ Đặng cho xông hương khắp nhà, mở rộng những cánh cửa để đón nguồn khí mới, vì hy vọng quan gia của mình cảm thấy sảng khoái hơn. Hắn thấp thỏm mong được đón một tân chánh sứ uy nghi vòi vọi, mong cho chuyến đi của chủ nhân sẽ sớm khởi hành và hắn cũng thấp thỏm mong mình được theo chân ông…
- Kính mừng quan gia một lần nữa thọ đại mệnh của hoàng triều, lần này… xin Người cho con đi theo hầu Người…
Họ Đặng cất lời trong hân hoan, hy vọng. Nhưng vẻ mặt quan Tham tri vẫn trầm lặng như bao ngày. Giao bức châu phê của nhà vua cho người hầu cận đặt lên án thư, ông cởi áo ngoài rồi ra hiệu cho hắn ra khỏi phòng. Như mọi khi thì họ Đặng vâng lời ngay, nhưng lần này hắn khe khẽ thưa:
- Dạ thưa quan gia, người tan chầu muộn, quá bữa lâu rồi, nên dùng bữa đi ạ…
Nghe vậy, quan Tham tri đứng dậy, đi xuống thiện phòng. Ông dùng bữa trưa muộn trong im lặng, khi cái nắng xuyên qua cửa sổ có vẻ chói gắt. Hồ sen nhỏ bên ngoài yên lặng không chút xao động, vườn cây quanh nhà cũng đứng yên… Họ Đặng lăng xăng dọn cơm cho chủ nhân, pha trà, hầu quạt. Ăn quấy quá vài miếng, chiêu vài ngụm trà, quan Tham tri đi về phòng ngủ - nơi vua chúa quan lại gọi là “tẩm thất", họ Đặng hay học theo để nói chuyện cho sang. Ông không cho họ Đặng đi theo, hắn cũng biết rằng đây là lúc chủ nhân muốn ở một mình, không phải để nghỉ ngơi, mà để suy tư, ngẫm ngợi điều gì…
Tư phòng, cũng như mọi chỗ trong tư dinh của quan Tham tri chẳng xa hoa, sang trọng gì mấy. Giường ngủ của ông đặt sau tấm bình phong bằng đồng, được chạm khắc hoa sen rất đẹp - đó là thứ duy nhất nói lên phẩm trật của ông - còn căn phòng gần như trống không, hai cánh cửa sổ và một cửa lớn trông ra hồ sen. Họ Đặng đứng ở bên ngoài nhìn cánh màn trắng buông xuống nhẹ nhàng, hắn liên tưởng đến một tấm vải tơ phủ lên người chủ nhân và khẽ ru cho ông ngủ. Cuộc sống thanh đạm, không ồn ào của quan Tham tri khiến cho hắn luôn có những ý nghĩ rất khác thường như thế - và hắn cũng tuyệt nhiên không dám nói ra.
Hắn tự nhủ rằng đây là những giây phút hiếm hoi vị chủ nhân tài hoa, hào sảng của mình được tận hưởng sự khoan khoái, dễ chịu sau những buổi chầu, buổi lễ căng thẳng, bộn bề những công việc và bổn phận. Họ Đặng vốn có gốc gác thi thư, đã được đọc thơ, nghe kể về cuộc đời của quan Tham tri rất lâu trước khi số mệnh đưa đẩy hắn được gặp ông. Hắn thuộc thơ của ông viết từ những ngày ông trôi dạt từ kinh thành Thăng Long về Quỳnh Phụ, cả những năm tháng lưu lạc sống ẩn dật của ông… Hắn được nhận vào dinh quan cũng nhờ biết chữ Hán và thuộc nhiều thơ, từ khi ông mới được thăng chức Cần Chánh điện học sĩ. Qua gần 7 năm, nhiều người đến rồi đi, nhưng quan gia vẫn giữ hắn ở lại bên mình, và cũng tỏ ra ưu ái, tin tưởng, mặc dù không thân thiết hay tâm sự gì cả.
Họ Đặng hiểu tâm tư của chủ nhân, hắn không cố gắng gần gũi hơn vì biết có cố mấy cũng không được. Nhưng hắn luôn dõi theo bước chân của ông, chờ đợi bước chân ông trở về tòa dinh thự có thể nói là nghèo nhất kinh thành Phú Xuân. Có lẽ đối với ông, nơi đây cũng chỉ là công quán - một nơi trú chân cho người đã qua hàng vạn dặm đường, để rồi ngay lập tức lại rời chân đi tiếp. Đôi chân của quan Tham tri đã đi hầu như khắp nơi trên đất nước; từng đã đi đến Vân Nam, Liễu Châu, Hàng Châu, Trường An… rồi đến Yên Kinh, hết làm một người phong lưu lại thành một kẻ phong trần, hết đơn độc rong ruổi lại đi vào hàng sứ giả để đại diện cho chính thể quốc gia trước sân rồng Đại Thanh. Oai hùng lắm, mà cũng bi tráng lắm thay! Họ Đặng ước ao được theo chân vị quan gia đầy từng trải của mình đi xa hơn, bước vào những thế giới rộng mở bên ngoài mà hắn biết rằng có nhiều nơi ông muốn tìm đến, hoặc trở lại… Những năm tháng qua, hắn sống trong tư dinh đóng kín của chủ nhân, tự âm thầm cảm thấy sự bức bối, nỗi khát khao của ông, và cũng tự hiểu mình đã bị (hay được) cái tinh thần sâu thẳm của ông cảm ngộ. Mặc dù ông chẳng tâm tình, chia sẻ với gia nhân bất cứ điều gì, nhưng họ Đặng coi đó là một mối lương duyên…
***
Nguyễn Du lên ngựa, rời tư dinh mải miết ngược dòng sông Hương đi về hướng Hương Trà. Khi những ruộng bắp hiện ra xanh ngút một khoảng trời chiều, ông mới cho ngựa chạy chậm lại. Trước khi đến gần căn nhà nhỏ lặng lẽ nép trong ruộng bắp, ông xuống ngựa, giấu chiếc áo khoác dưới yên ngựa để lộ bộ quần áo màu xám cũ kỹ bên trong. Yên tâm với vẻ ngoài giống như một doanh gia hạng xoàng, ông dắt ngựa đến gần căn nhà vách đất được lợp lá đã xộc xệch ấy, và lên tiếng gọi người phụ nữ đang cúi người nhặt những trái bắp được phơi trước sân:
- Này Hỷ nương, lại không nghe lời ta, ra ngoài làm mấy việc này để đau sút lưng luôn à?
Nghe thấy giọng nói Hà Tĩnh nhẹ nhàng, trầm ấm, người được gọi là Hỷ nương ngẩng đầu lên, rồi từ từ đứng dậy. Bộ quần áo trên người bà cũ bạc còn hơn bộ quần áo của người đối diện, nhưng gương mặt dù đã nhuốm màu thời gian lại sáng như trăng rằm, đôi mắt mở to như hút hồn người và cả không gian rộng lớn xung quanh. Nguyễn Du dùng tay gỡ chiếc nón lá Hỷ nương đang đội, để lộ mái tóc bạc hơn một nửa.
- Ít ngày không gặp mà nàng có vẻ hao gầy quá. Mới qua tuổi tứ tuần mà trông giống một lão bà lắm rồi!
Giọng nói của ông trầm xuống đầy xót xa, âu yếm. Hỷ nương hơi cúi đầu, chậm rãi và dịu dàng trả lời:
- Thiếp chả sợ già, chả sợ xấu nữa. Cứ sống tự nhiên, tự tại. Còn bao nhiêu năm tháng nữa mà phải khổ công nắn nót, điểm trang?!
Nghe vậy, Nguyễn Du chợt cười xòa, nhìn vào trong nhà hỏi thăm con trai của Hỷ nương có nhà không. Bà đáp:
- Hắn mang bắp đi bán từ sớm rồi, và đi phụ việc cho người ta, chắc chiều nay về nhà. Ngài ở lại ăn tối cùng với mạ con của thiếp nhé.
Nói xong, bà khoan thai cùng với Nguyễn Du vào nhà, mở bình tích rót trà mời ông. Nhìn phong thái gia chủ nhẹ nhàng, tao nhã và có phần cung kính, người khách cũng chậm rãi đón lấy tách trà mà ánh mắt không rời được bàn tay đầy gân xanh của bà. Đợi Hỷ nương ngồi xuống phía đối diện, ông mới nói:
- Ta đến thăm nàng có mạnh khỏe không. Nếu nàng được mạnh thì chỉ mong được nghe nàng đàn vài dạo, hát vài câu mà thôi…
Cùng lúc, cả hai cùng nhìn lên vách đất, nơi treo những cây đàn của Hỷ nương. Bà cười nhưng giọng nói ngậm ngùi như có nước mắt:
- Ngài sợ thiếp nhớ nghề mà buồn bã, tủi hổ sao? Có được một người khách hát như ngài thì cuộc đời ca nương của thiếp đã mãn nguyện trăm phần rồi, cần gì phải mạnh hay không mạnh!
Nói xong, bà gượm đứng dậy để lấy đàn, nhưng Nguyễn Du xua tay, kéo bà ngồi xuống. Ông nói nhanh như để trấn an một cơn xúc động hay lo sợ thoáng qua trong lòng:
- Thôi ngồi xuống, ta không có tâm trạng để nghe đàn đâu. Ta sắp phải đi xa một chuyến, hơi lâu lâu đấy, nên ta cảm thấy lo cho mẹ con nàng. Ta muốn trước khi ta đi sẽ sửa lại nhà cho nàng, đào cho nàng một cái giếng gần nhà hơn… Lần này, nàng đừng khí khái từ chối tấm lòng ta. Có vậy ta mới yên lòng…
Ban đầu Hỷ nương khẽ cúi đầu lắng nghe theo thói quen, chợt nghe đến tiếng “đi xa" bà thảng thốt ngẩng lên nhìn ông, rồi khe khẽ hỏi lại:
- Ngài đi xa đến đâu? Mà hơi lâu là bao lâu mới về?
- Sớm thì cũng phải hơn một năm…
***

Minh họa: Lê Trí Dũng
Họ Đặng không ngủ mà ngồi im trong bóng tối, lặng lẽ trong chính căn phòng của mình. Đêm đã buông từ lâu rồi, mà bước chân quan gia vẫn chưa trở về. Hắn biết, giờ này quan Tham tri đang vội vã phi ngựa dọc bờ sông Hương Trà, người ngựa ướt đẫm sương giá và lẫn vào với ruộng vườn vùng Hương Thọ, nơi những người nông dân nghèo đang sống yên phận phía sau kinh đô Phú Xuân. Ông có nghĩ đến tên gia nhân đang chờ ông ở dinh phủ của mình không? Chỉ biết rằng mỗi khi về quá muộn trong đêm, ông không hề ngạc nhiên thấy họ Đặng chạy ra đón và dắt ngựa vào chuồng cho mình. Ông có vẻ hàm ơn trước sự hiểu chuyện của hắn, đã không báo động làm náo loạn dinh cơ khi chủ nhân đi vắng quá lâu. Hắn biết, ông đang cố gắng giữ vẻ bình thản bên ngoài để lo liệu cho xong vài việc riêng trước khi lên đường đi sứ.
- Đây không phải là lần đầu tiên ta đi đến nơi ấy. Đời ta đã đi lang bạt khắp nơi, gần như cùng trời cuối đất thì ta ngại gì không đến đó một lần nữa, để làm một việc có ích. Nhưng lần này, ta không an tâm, vì ta lo cho nàng. Nếu nàng đau ốm hoặc gặp điều gì bất trắc thì ta sẽ tự thẹn với bản thân mình biết bao nhiêu…
Họ Đặng đã chính tai nghe thấy quan Tham tri nói với người ca nương đang sống ẩn dật tuổi xế chiều như thế. Hai người ngồi sát bên nhau, bờ vai tuấn tú, to rộng của quan Tham tri phủ trùm lên đôi vai mảnh khảnh, run rẩy của Hỷ nương. Hai mái tóc nhuốm bạc như muốn trộn vào nhau, sự từng trải phong độ của ông ngả vào mớ tóc xác xơ được búi lỏng lẻo trên đầu Hỷ nương. Cả hai im lặng nhưng dường như họ đang âm thầm khóc cùng nhau. Thật lâu sau, người đàn bà buông lời như muốn dỗi hờn, trách móc:
- Cuộc đời ngài chắc là đã gặp bao nhiêu ca nương, mỹ nữ, đâu cần bận lòng với một con hát già nua tóc bạc da mồi, nói còn không ra hơi như thiếp…
- Ừ, có lẽ nàng nói một phần không sai - cánh tay quan Tham tri vươn lên rồi lại ngập ngừng buông xuống, không chạm vào người Hỷ nương. Ông nói: - Đời ta gặp rất nhiều bậc kỳ nữ, cầm kỳ thi họa đủ cả. Cũng đã từng đắm chìm trong tiếng đàn tiếng hát, đã từng say theo nhan sắc, tài hoa của một vài người… Nhưng chính vì thế mà khi gặp nàng ta cảm thấy thương và trân trọng, như thể trời ban cho ta một hồng nhan tri kỷ lúc cuối đời. Cho nên nàng yên tâm với tấm chân tình của ta. Nàng nghĩ nàng không còn gì, kể cả ngón đàn giọng hát, nhưng thực ra nàng có rất nhiều thứ ta đã kiếm tìm mà không được hơn nửa đời người. Bởi vì mọi thứ có thể qua đi như chớp hiện ngang trời rồi tắt, nhưng sự liên tài, thấu hiểu và đồng cảm thì sẽ còn lại mãi…
- Ngài nói như thế thì thiếp cảm động lắm. Nhưng mấy năm rồi quen biết mà chẳng biết tên tuổi thật, chẳng biết xuất thân của ngài như thế nào? Thiếp biết tên của ngài là một biệt danh thời còn trẻ, hoặc một cái tên giả. Công việc cũng mơ hồ, tự nhận là doanh gia nhưng lại không giống doanh nhân chút nào… Như vậy ngài có thật lòng với thiếp không?
Quan Tham tri im lặng không đáp, mặt ông hơi nghiêng về phía người phụ nữ nên ánh đèn chiếu vào trông xạm lại. Một lúc lâu sau, Hỷ nương lại nói tiếp:
- Nhưng thiếp tin ngài, và cầu chúc cho ngài luôn mạnh khỏe, công việc hanh thông. Khi nào xong việc thì trở về thăm thiếp cũng được.
- Tạ ơn nàng. Nơi ta sắp cất công đi là Yên Kinh, còn gọi là Bắc Kinh, nơi kinh thành có thể nói là chốn phù hoa nhất trên đời. Lần này ta đi theo sứ bộ của một vị quan để lo việc của triều đình, cũng không phải là kinh doanh buôn bán gì. Nhưng tìm được thứ gì hay hay ta sẽ mang về làm quà cho nàng. Nàng hãy vui lòng nhé.
- Dạ, thiếp vui. Vậy là ngài đã biết hai vùng đất đế kinh rồi phải không?
- Thuở nhỏ ta từng sống ở kinh thành Thăng Long nữa là ba rồi. Chưa kể là ta đã đặt chân đến những vùng đất được gọi là cố đô. Có lẽ vì vậy mà ta có vẻ từng trải, khác lạ trong mắt nàng. Nhưng với ta, kinh thành nào cũng thế, ở đâu cũng có những phận người nhỏ bé, đáng thương, ở đâu cũng có những khát vọng tồn sinh và hạnh phúc, ở đâu cũng có…
- Thôi được rồi, trời sắp sáng rồi, ngài hãy về đi - quan Tham tri đang nói đến đó thì Hỷ nương lật đật đứng dậy, kéo tay ông lên. Bà giục giã: - Con trai thiếp đi bán bắp cũng sắp về, đám thợ sửa nhà chắc cũng chuẩn bị đến. Thiếp không ngại có mặt ngài ở đây, nhưng lỡ gặp người quen thì không hay cho ngài…
Quan Tham tri cũng lật đật không kém, nhưng ông cố nhóm xong bếp củi lên cho Hỷ nương, khi hơi ấm tỏa khắp nhà thì ông mới lên ngựa, mải miết phóng vào bóng tối. Hỷ nương đứng lặng bên cánh cửa đan bằng tre, vẻ mặt vừa nhẹ nhõm lại vừa đau đớn lạ thường. Tên hầu cận họ Đặng vì vậy mà không dám nhúc nhích, sợ bà giật mình và nhận ra có người lạ ở sát bên. Sớm nay, quan Tham tri phải vào điện Thái Hòa dự buổi thiết triều, không biết ông có về tư dinh kịp giờ không…
***
Căn nhà sửa đã tươm tất, giếng đào đã xong. Nhưng ca nữ Hỷ nương lại khóc ngất bên thềm, chết đi sống lại vì con trai của bà chết vì bệnh dịch. Đứa con trai bà phải trả giá bằng cả cuộc đời mình, từ bỏ nghiệp hát trong những năm tháng xuân sắc nhất để sinh thành và nuôi nấng. Qua tiếng khóc thảm, mọi người mới hay cậu đã bị đau vài ngày, nhưng cố đi giao chuyến bắp cuối mùa để kiếm thêm ít đồng, vì có nhà mới nên cậu rất phấn khởi và hào hứng. Nhưng rạng sáng hôm đó cậu chết ở chợ phiên, người ta phát hiện ra lập tức tạt vôi khử trùng, rồi quấn lại đem đi đâu mất.
Hỷ nương chờ mãi không thấy con về, nhờ người khách quen tên Du hay lui tới hỏi giúp mới biết con mình đã mất.
- Con ơi, con ở đâu? Sao không về với mạ? - Hỷ nương ôm trong lòng chiếc áo cũ của con, khóc nấc từng cơn - Mạ chưa kịp vui được ở nhà mới với con, chưa kịp hỏi con muốn cưới vợ chưa, thì con bỏ mạ đi rồi… Sao mà con chết khổ rứa con? Con không thương mạ sao con?
Nguyễn Du im lặng đứng bên cạnh bà hồi lâu, làn da ông trở nên xạm hơn, vầng trán nhăn lại, tuy không có chút nước mắt nhưng nét mặt đau đớn, thảng thốt. Ông đặt vào tay Hỷ nương một nén hương vừa thắp, dìu bà đứng dậy để đi vào nhà. Bà bước đi xiêu vẹo, cơ thể cứ lả đi.
- Hỷ nương!
Nguyễn Du gọi, nhưng mấy lần bà đều không đáp, đôi mắt thất thần nhìn lên làn khói vô định trên bàn thờ. Ông dìu bà ngồi xuống bàn trà, khuyên nhủ bà vài câu nhưng bà ủ ê bịt tai lại.
- Đừng như vậy mà Hỷ nương. Ta cũng đau lòng lắm…
Hỷ nương chợt bật đứng lên, dùng cả hai tay chùi nước mắt rồi quay lại nhìn những cây đàn trên vách:
- Đúng rồi! Giờ thì chỉ có thể đàn hát cho quên nỗi trầm luân nhân thế này. Ngài đừng đi đâu nhé, ở lại đây nghe thiếp hát, cũng là an ủi thiếp…
Nguyễn Du không nói gì, chỉ lặng im nhìn người ca nương già run rẩy chọn lấy một cây đàn nhị, rồi kéo ghế ra giữa căn phòng nhỏ. Bà chuẩn bị tuần tự mọi thứ, chỉnh đốn áo khăn cho đàng hoàng rồi ngồi xuống vừa đàn vừa hát. Bà bắt đầu ca những bài ca Huế buồn thương bằng giọng hát yếu ớt tưởng chừng nếu chợt đứt thì sẽ tắt lịm.
“Làm người phải có ngũ luân… nếu bằng tình như thiếu một a ơi a mười phần…
Giàu nghèo chỉ một giấc mơ… sang giàu rồi lại a ơi a bần cơ bần cơ sự thường…"
Nguyễn Du ngồi gõ nhịp theo khúc hát. Tâm cảm của ông bị cuốn theo hết điệu này đến điệu khác. Nhịp phách cứ thế mà tự nhiên tìm nhau, vang lên trước khi chìm sâu vào bóng đêm. Căn nhà nhỏ như một con thuyền đang trôi nhẹ trên sông. Ông ngồi ngắm nhìn người tài nữ cứ mải mê hát trong khi dần kiệt sức, những ngón tay gầy guộc của bà bật máu quệt thành những vệt dài lên tấm áo trắng như chiếc áo tang.
- Nàng ơi! Hỷ nương!...
- Cứ để cho thiếp được hát, trọn đêm nay. Rồi mai sau có thế nào, cũng mong ngài nhẹ lòng mà bước đi, đừng quá băn khoăn, thương cảm…
- Không phải, Hỷ nương ơi! Nàng làm cho ta nhớ đến những câu thơ ta đã từng viết. Như thể đó là điều định sẵn cho cuộc đời ta, phải đi qua biết bao thăng trầm mới gặp được nàng, đúng là nàng! Sao không thể sớm hơn vậy hả Hỷ nương?
Nguyễn Du đứng lên cất cây đàn nhị, rồi quay lại nâng lấy hai bàn tay Hỷ nương, cứ thế siết nhẹ trong tay mình. Ông thì thầm thật chậm:
- Nàng có biết ta đã viết gì không? Ta viết rất nhiều, thanh âm đã ngấm vào máu thịt của ta, cho ta những câu thơ đau đớn, đẹp đẽ đến diệu kỳ. Nhưng ta chưa được chứng kiến một cuộc đàn nào kỳ lạ đến thế này, và nghe được tiếng hát, tiếng đàn chân thật đến thế này. Nàng đúng là đã đưa vào cuộc đời ta cảnh tượng mà ta dự cảm biết bao năm: “Một cung gió thảm mưa sầu - Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay…"
Hỷ nương rùng mình, nhưng bà không khóc.
- Đừng nói nữa, ngài sẽ làm cho chính mình và thiếp đau đớn thêm…
- Hỷ nương, nàng đã trút cạn sức lực để mà đàn hát. Ta cũng cùng nàng trọn một đêm nghe nàng dốc hết tâm can. Xin nàng hãy hứa với ta…
- Chết rồi, trời sắp sáng rồi. Ngài hãy mau trở về thành nội đi thôi, đừng chậm trễ kẻo bị quân lính tra soát, bắt bớ. Bệnh dịch đang lan tràn khắp nơi, quân canh và người chết dày đặc. Ngài còn việc lớn sắp phải xuất hành đi xa, phải biết bảo trọng!
- Ta biết, nhưng mà…
***
Tên hầu cận họ Đặng khe khẽ bước vào tư phòng của quan Tham tri, trên tay cầm một bát thuốc nghi ngút khói. Nhưng hắn chưa kịp lên tiếng, ông đã hắng giọng ho và xua tay đuổi hắn ra ngoài.
- Dạ thưa, con xin ông uống bát thuốc này cho mau khỏe!
- Được rồi, đi ra, đi ra!...
Họ Đặng vội lui ra, song vẫn kịp nhìn thấy những mảnh giấy đề thơ bị xé rách dưới chân giường. Cửa sổ và cửa lớn vẫn mở ngỏ, căn phòng thoang thoảng mùi hương sen đang nở, gió nhẹ nhàng luồn lách từ những tán cây trên cao để chạm vào chiếc phong linh treo gần đó. Họ Đặng thắp một nén hương cắm lên chiếc lư đồng đặt ngoài tổ đình, thành kính khấn nguyện trời đất phù hộ cho quan gia của mình mau khỏi bệnh.
Hết một canh giờ, hắn quay trở lại tư phòng và thấy bát thuốc vẫn còn nguyên, quan Tham tri đang ngủ. Mọi thứ vẫn bình thường như mọi ngày, chỉ có hơi thở của ông có phần đổi khác, những tướng tốt trên người ông cũng thay đổi, như thể chúng lặn xuống dưới làn da tái xạm, u buồn của ông. Người gia nhân trào nước mắt, chỉ biết bưng bát thuốc đã nguội rời khỏi phòng.
Thoáng một chốc, trời lại mưa như trút nước. Tiếng phong linh, và cả hơi thở nặng nhọc của quan Tham tri cũng chìm vào mưa gió. Họ Đặng đi đốt một nụ trầm cho không gian có chút hơi ấm, và hắn không ngừng liên tưởng đến căn bếp của lão bà Hỷ nương được quan gia nhóm lửa sớm hôm nào. Chủ nhân đã đi biết bao nơi, chứng kiến và hiểu lẽ sinh - lão - bệnh - tử của con người, chẳng lẽ lại để tâm mình vướng mắc vào một nỗi phiền não như vậy sao? Ông còn có thê thiếp, còn nhiều con nhỏ, những mối dây trần duyên không thể cắt đứt. Vậy mà suốt mấy ngày từ khi biết mình nhuốm bệnh, ông không buồn cất người ngồi dậy để uống lấy bát thuốc, húp lấy ngụm cháo…
Ngày hôm sau, mọi thứ vẫn tiếp diễn khiến cho họ Đặng không giữ nổi bình tĩnh. Hắn quỳ xuống ôm chầm lấy chủ nhân, khóc lóc, van vỉ ông hãy uống thuốc, ăn cháo. Ông muốn làm điều gì, hoặc muốn gặp ai, mà đích sự là muốn gặp họ hàng, người thân… thì xin hãy dặn dò hắn, hắn sẽ thực hiện ngay. Nhưng ông cấm. Không còn mấy sức lực, ông nói với hắn:
- Ta không muốn ai phải chộn rộn vì ta, ta chỉ muốn được yên tĩnh một mình.
- Thưa quan gia, Người còn phải phụng mệnh đức vua đi Trung Hoa. Lại còn điều này con trộm nghĩ, quê hương của Người vốn xa chốn kinh thành này, mà người là đại hiếu tử, người đã mang lại vinh hiển cho dòng tộc chỉ sau có đại tể thần Nguyễn Khản. Người không thể không trở về nơi ấy. Cho nên con xin Người hãy vì quốc sự, vì đại cuộc mà không nên ruồng bỏ tấm thân mình…
- Ta biết rồi. Nhà ngươi hãy lui đi…
Mưa gió quật đổ những mái lá, xuyên qua mặt đất rồi cuồn cuộn đổ xuống sông Hương, xé rách cửa biển Thuận An, tràn ngập những vườn cây, ruộng bắp. Con ngựa trong tàu cũng bỏ ăn, hí cuồng lên vì mùi tử khí đang lan rộng khắp kinh thành. Vua Minh Mạng đích thân đăng đàn cầu cho dịch bệnh mau lui… Song vẫn không sao ngăn được những người ra đi trong năm đó. Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền viết rằng trong những ngày ấy, quan Tham tri bộ Lễ - Nguyễn Du - cứ thế nằm yên lặng, chờ hơi lạnh dần xâm lấn lấy cơ thể của mình. Và chờ một điệu đàn, tiếng hát nào thật xa vời đưa tâm hồn của ông bay đi…
T.T.H
Nguồn: Văn nghệ Đồng Nai số 90 (Tháng 8 năm 2025)