Thứ 6 - 26/02/2016
Màu đỏ Màu xanh nước biển Màu vàng Màu xanh lá cây
Chào mừng Đại hội Hội Văn học Nghệ thuật Đồng Nai lần thứ VII (nhiệm kỳ 2025 - 20230
“Rực rỡ sắc mai vàng, mừng Đảng, mừng Xuân, mừng Đất nước vươn cao tầm đổi mới; Thắm tươi màu cờ đỏ, chúc Đoàn, chúc Hội, chúc Đồng Nai nỗ lực để thành công" (Dương Thanh)
NGÀY XUÂN NÓI CHUYỆN CÂU ĐỐI

Thiết kế chưa có tên (40).png

Thưởng xuân, vui Tết, người Việt Nam ta thường nhắc đến câu đối:

Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ

Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh

Có lẽ đó là những thứ gần như không thể thiếu trong những ngày tết Nguyên đán cổ truyền. Ở đây chỉ xin nói đôi điều về câu đối đỏ ngày xuân hầu bạn đọc.

Trong kho tàng văn chương Việt Nam, câu đối chiếm một vị trí khá quan trọng bởi ngày xưa sĩ tử đều phải học và viết văn theo lối biền ngẫu mà thể phú là một điển hình. Học trò Nho học sau khi học để biết chữ bằng các sách Nhất thiên tự, Tam thiên tự, Ngũ thiên tự, Minh tâm Bửu giám mới học Tứ thư và Ngũ kinh, sau đó mới học viết văn, làm thơ. Thường viết văn hay làm thơ đều có các câu đối, trích dẫn các câu đối cổ hay sáng tác câu đối mới. Khi học, thầy đồ thường dạy học trò của mình biết làm câu đối, có khi thầy ra một vế đối cho học trò đối lại để rèn luyện khả năng sáng tác câu đối. Trong kho tàng văn chương Việt Nam hay Trung Hoa xưa còn lưu lại nhiều câu đối hay bằng chữ Hán và có nhiều giai thoại về câu đối để đời, cũng có những vế xuất đối mà rất khó để đối lại cho chuẩn như câu “Da trắng vỗ bì bạch" của Đoàn Thị Điểm.

Giai thoại văn chương Việt Nam có lưu lại một số trường hợp ra câu đối và đối lại rất hay như trường hợp đám cưới đoàn nhà trai thuộc làng Tiên Sơn đến làng Vọng Nguyệt rước dâu bị thách đối một câu, nếu không đối được thì không cho rước dâu. Câu đối bên nhà gái như sau:

- Gái Vọng Nguyệt trông trăng Vọng Nguyệt, nguyệt nguyệt bằng thục nữ thuyền quyên.

Rõ ràng đó là một xuất đối rất khó đối vì Vọng Nguyệt là tên làng cũng là trông (nhìn) trăng, hai chữ “nguyệt" đứng bên nhau là chữ “bằng".

Đoàn rước dâu nhà trai có Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, ông đã đối lại:

- Trai Tiên Sơn trước núi Tiên Sơn. Sơn sơn xuất anh hùng hào kiệt.

Câu đối lại thật chuẩn vì Tiên Sơn là tên làng cũng là trước núi. Hai chữ “sơn" đứng chồng lên nhau là chữ “xuất". Nhà gái bội phục và cho đón dâu.

Hay như trường hợp Mạc Đĩnh Chi đi sứ sang Tàu về đến cửa ải trễ, chiều tối không qua cửa ải được. Quan giữ ải của Tàu biết là đoàn sứ của Mạc Đĩnh Chi bèn ra câu đối:

- Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan.

Đây là một câu đối rất khó vì có 3 chữ “quá" có nghĩa là đi qua, 4 chữ “quan", trong đó có 3 chữ “quan" là ải, 1 chữ “quan" là cửa. Mấy chữ “quan" và “quá" lặp đi lặp lại với nghĩa khác nhau.

Mạc Đĩnh Chi đáp lại:

- Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối.

Câu xuất đối như là một lời từ chối mở cửa quan, còn câu đối lại chỉ như câu trả lời là câu xuất đối quá khó, xin ông đối trước, thế mà lại là vế xuất đối và đối lại thật chỉnh. Quan giữ cửa ải phải cho đoàn sứ của Mạc Đĩnh Chi qua cửa ải.

Lại có chuyện đoàn sứ Tàu gặp Đoàn Thị Điểm chọc ghẹo:

- An Nam nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh.

Một câu nói xấc xược có nghĩa là An Nam có một tấc đất, không biết có bao nhiêu người cày. Bà Đoàn Thị Điểm bèn đối lại:

- Bắc quốc đại trượng phu, tắc giai do thử xuất.

Có nghĩa là các bậc đại trượng phu của Bắc quốc đều từ đó mà ra. Thật là một câu trả lời hết sức thâm thúy, đau điếng mà sứ Tàu đành phải cứng họng.

Trong văn chương Việt Nam, nói đến câu đối thì cũng cần nhắc đến bài hát nói của Trần Tế Xương có 2 câu:

Cực phẩm giá chi nhân gian phong nguyệt tình hoài

Tối thế thượng chi phong lưu giang hồ khí cốt.

Có những câu đối rất phổ biến trong dân gian như câu:

Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách

Sắc bất ba đào dị nịch nhân.

Trên đây là một vài giai thoại về câu đối chữ Hán, còn câu đối chữ Nôm thì cũng rất thú vị với 2 câu đối của Đặng Trần Thường và Ngô Thì Nhậm (Ngô Thời Nhiệm). Đặng Trần Thường bị Ngô Thì Nhậm chê khi còn hàn vi, đến khi nhà Tây Sơn bị diệt, Đặng Trần Thường vì theo Nguyễn Ánh lập công nên được phong tước. Khi Ngô Thì Nhậm bị bắt gặp Đặng Trần Thường nhạo bằng câu đối:

Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai ai dễ biết ai.

Ngô Thì Nhậm đáp lại:

Thế chiến quốc, thế xuân thu, gặp thời thế thế thời phải thế.

Còn trong dân gian có câu nhạo báng:

Miệng nhà quan có gang có thép

Trôn nhà khó vừa nhọ vừa thâm

Trong các đám cưới, ngày xưa bên nhà gái thường dán đôi câu đối vào lễ đính hôn để cho người khác biết con gái nhà mình đã có người dạm hỏi. Đến ngày đám cưới cũng có đôi câu đối do nhà trai mang đến, thường mang ý nghĩa là cô dâu, chú rể đẹp đôi đã chọn được ngày lành, tháng tốt làm lễ đón dâu, lễ vu quy. Có một câu đối mang tính dân gian nhưng khá hay và thường gặp của các gia đình người Việt, đó là:

Trình phụ mẫu nữ nhi xuất giá

Cáo từ đường chi tử vu quy

Trong dân gian Việt Nam xưa, khi xuân về, Tết đến gần như hầu hết các gia đình dù giàu hay nghèo đều muốn có câu đối xuân dán hai bên cửa, nhà 3 gian có 4 cột hàng ba thì dán 2 cặp. Nội dung câu đối xuân mang ý nghĩa tốt đẹp và thường là dùng những câu đối cũ như:

Thiên tăng tuế nguyệt nhân tăng thọ

Xuân mãn càn khôn phước mãn đường.

Hay:

Hòa thuận nhất môn thiêm bách phước

Mãn môn xuân sắc đại vinh hoa

Hoặc

Tùng trúc mai tuế hàn tam hữu

Đào lý hạnh xuân phong nhất gia

Treo trong nhà hay để mừng thọ thì có câu:

Phước như Đông hải trường lưu thủy

Thọ tỉ Nam sơn bất lão tùng.

Trên những tờ báo xuân từ những năm trước 1975 đến nay, rất nhiều tờ có đăng những câu đối xuân mà nội dung chủ yếu là tiễn năm cũ, đón năm mới, tiễn cái xấu, cái không hay của năm cũ và chúc năm mới với nhiều điều tốt lành, có những câu cũng khá hay.

Ở các tỉnh phía Bắc xưa, việc đến gần tết có những ông đồ bày mực tàu giấy đỏ bên lề đường viết câu đối cho nhiều người đến mua để dán trước nhà những ngày Tết, ngày xuân, nhưng theo thời đại bút lông thay bằng bút sắt thì các ông đồ dần ít đi hay biến mất như bài thơ “Ông đồ" của nhà thơ Vũ Đình Liên đã tả: Nhưng mỗi năm mỗi vắng/ Người thuê viết nay đâu/ Giấy đỏ buồn không thắm/ Mực đọng trong nghiên sầu.

Ngày nay, phong trào gọi là “Thư pháp chữ Việt" thịnh hành, các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh có tổ chức “Phố ông đồ" chuẩn bị đón xuân, có khá nhiều người trẻ tuổi cầm bút lông hay cọ vẽ để vẽ chữ Việt bằng phẩm màu hay kim nhũ trên những tấm thiệp theo yêu cầu của khách nhưng khả năng viết câu đối thì không có hoặc còn quá yếu. Bên lề đường Văn Miếu ở Hà Nội cũng có nhiều người viết thư pháp bằng chữ Hán khá hay nhưng không thể có chữ “phượng múa rồng bay" như Vũ Đình Liên đã tả và cũng rất ít câu đối xuân.

Thiển nghĩ chúng ta nên phục hồi thú chơi câu đối, âu cũng là một cách để rèn việc sử dụng ngôn ngữ trong viết văn, làm thơ hay phục hồi giá trị văn chương của người xưa để lại.

T.T.H

Nguồn: Văn nghệ Đồng Nai số 83-84 (Tháng 01 & 02 năm 2025)​


TRƯƠNG THANH HÙNG
Object reference not set to an instance of an object.

Liên kết webiste

Thăm dò ý kiến

Đánh giá về trang thông tin điện tử Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đồng Nai

 

Số lượt truy cập

Trong ngày:
Tất cả:

HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT ĐỒNG NAI
Địa chỉ: 30 Đường Nguyễn Ái Quốc, P.Tân Tiến, Thành phố Biên Hoà, Đồng Nai
Điện thoại : 02513.822.992; Email: hvhnt@dongnai.gov.vn
Chịu trách nhiệm xuất bản: NSND. Đạo diễn Giang Mạnh Hà – Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đồng Nai.
Trưởng Ban biên tập: Trần Thu Hằng​​