Buổi chiều, một người bạn văn Hà Nội gọi zalo cho biết, Đại tá nhà văn Khuất Quang Thuỵ vừa trút hơi thở cuối cùng tại quê nhà ở tuổi 75. Vậy là anh đi thật rồi, rất vội. Khép lại một trang đời ngồn ngộn văn chương bi thương và lừng lẫy, nhất là văn chương viết về người lính và chiến tranh cách mạng.
Ông sinh ngày 12 tháng 01 năm 1950 tại làng Thanh Phần, xã Phúc Hoà, huyện Phúc Thọ (Hà Nội). Năm 1967, khi ấy vừa tròn 17 tuổi, ông nhập ngũ, lên đường vào Nam chinh chiến khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta vào thời đoạn cam go, ác liệt nhất.
Theo lời kể của ông lúc sinh thời và qua cuốn tiểu thuyết “Trước ngưỡng cửa bình minh” của ông, được biết, hôm ấy từ quê nhà, ông theo bạn bè ngược lên miền Hoà Bình (sông Đà) huấn luyện tân binh. Sau ba tháng tân binh đầu đời quân ngũ, ông cùng đồng đội cơ động vào Nghệ An, rồi hành quân theo đường mòn Hồ Chí Minh, vào tuyến lửa đường 9 (Nam Lào). Tiếp đến là tham gia chiến đấu trên mảnh đất Quảng Trị khói lửa. Lại tiếp tục hành quân vào chiến đấu vùng Tây Nguyên, tiếp tục hành quân vào vùng Nam Bộ, đầu quân vào Đoàn Đồng Bằng thuộc Sư đoàn 320, tham gia chiến đấu vùng ven Sài Gòn miệt Gò Dầu, Trảng Bàng, Củ Chi. Người chiến sĩ ấy cũng kịp có mặt tại Dinh Độc Lập vào thời khắc lịch sử của dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Nhà văn, Đại tá Khuất Quang Thụy (1950 - 2025)
Những ngày tháng cầm súng chiến đấu cùng đồng đội trên cương vị chiến sĩ, may mắn đã liên tục gọi tên ông trước hòn tên mũi đạn. Ông là một trong những chiến đấu viên linh hoạt, cừ khôi và hết sức gan dạ, nhưng đạn bom quân thù không làm gì được. Vào những thời khắc sinh tử ấy, ông đã nuôi thú đam mê văn chương. Ban đầu, theo ông nói là chỉ viết về những kỉ niệm, những khoảnh khắc chiến đấu của đồng đội, bạn bè. Những bi thương, khắc nghiệt cùng những lẫm liệt của cán bộ, chiến sĩ ta, về tình đồng chí đồng đội gan dạ dũng cảm, nhường cơm sẻ áo và tình cảm nhân dân, các đơn vị bộ đội, dân quân du kích, biệt động quân, nhất là nhân dân vùng ven Sài Gòn dành cho bộ đội chủ lực, những người lính chiến từ miền Bắc hành quân vào Nam chiến đấu, giải phóng quê hương. Trước những bom cày đạn xới, giữa những sình sạp, đầm lầy ngập ngụa đồng bưng, rắn rết, muỗi, sên vắt và hơn cả là những tấm gương anh dũng hi sinh, những cái chết tức tưởi, đau đớn, những câu chuyện tình yêu đôi lứa giữa thời chiến, giữa loạn lạc đầy bi thương và cả những nỗi nhớ quê nhà của những chàng trai cô gái tuổi đời còn rất trẻ, những ước ao, khao khát “đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào”, mau chóng giải phóng hoàn toàn miền Nam ruột thịt, non sông thu về một mối, Bắc - Nam sum họp một nhà dồn lên ý chí, dồn lên mũi súng của quân và dân ta đồng sức đồng lòng tạo nên sức mạnh to lớn không gì lay chuyển và cản được bước tiến của quân và dân ta…
Tất cả những gì hiện ra trước mắt, trong tâm tưởng, trong nhận thức và tình cảm ấy cứ dồn nén, làm chất liệu quý báu cho ông viết, viết thật nhiều chứ ngay cả ông lúc đó không nghĩ là mình có thể trở thành nhà văn, lại là nhà văn viết chuyên sâu về người lính và chiến tranh cách mạng trong những bài thơ ở mặt trận Tây Nguyên, những trang văn đẫm chất bi tráng của chiến tranh, lay động lòng bạn đọc là đồng đội của ông lúc đó.
Hoà bình lập lại, Bắc - Nam thực sự thống nhất một nhà, năm 1976, ông được điều động trở ra Hà Nội, tiếp tục thực hiện giấc mơ văn chương của mình, theo học lớp viết văn Nguyễn Du Khoá I. Năm 1982, sau tốt nghiệp Trường viết văn Nguyễn Du, ông được điều động về làm biên tập viên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, rồi trưởng ban văn xuôi, Phó Tổng biên tập tạp chí Văn nghệ Quân đội trước khi đầu quân sang công tác tại Hội Nhà văn Việt Nam trên cương vị Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ, Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam.
Trong thời gian làm việc ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội, ông chuyển hẳn sang mảng văn xuôi. Tiểu thuyết thành công rực rỡ đầu tiên phải kể đến “Trong cơn lốc gió” (1980), với 5 vạn bản đã xuất bản và tái bản nhiều lần sau đó. Kế đến phải kể đến hàng loạt tiểu thuyết ra đời như “Trước ngưỡng cửa bình minh” (1985); “Không phải trò đùa” (1985); “Những người ở bến Phù Vân” (1986); “Thềm nắng” (1988); “Góc tăm tối cuối cùng” (1988); “Giữa ba ngôi chùa” (1989); “Những bức tường lửa” (2000); “Đối chiến” (2012); “Đỉnh cao hoang vắng” (2016) và nhiều tác phẩm để đời khác. Ông viết nhiều, viết khoẻ, tỉ mỉ viết, lặng lẽ viết, nhưng mảng thành công lớn nhất của ông là thể loại thứ bảy: Tiểu thuyết. Văn của ông đượm buồn và bi thương, nhưng sáng rõ con đường. Nếu như giai đoạn trước năm 2000, Khuất Quang Thụy chỉ chuyên về văn mô tả, kể về chiến tranh một cách tỉ mỉ từng chi tiết về người lính, thân phận người lính, về chiến tranh thì sau năm 2000 trở đi, tác phẩm của ông đã vượt ra khỏi không gian và thời gian, mổ xẻ về những vấn đề quy luật chiến tranh, suy ngẫm và bình luận về chiến tranh. Tác phẩm của ông có sức lan toả rộng rãi mãi trong lòng bạn đọc, đến sau này với một sức hút mạnh mẽ và dần dần ông có lượng bạn đọc đáng nể.
Nhà văn Khuất Quang Thụy (bìa phải) và đồng đội (ảnh do gia đình cung cấp)
Trong sự nghiệp cầm bút của mình, nhà văn Khuất Quang Thụy nhận nhiều giải thưởng danh giá như: Giải Nhất cuộc thi viết truyện ngắn của tạp chí Văn nghệ Quân đội, giải thưởng Văn học Bộ Quốc phòng (1984) với tiểu thuyết “Không phải trò đùa”, giải thưởng Văn học Bộ Quốc phòng (2004) với tiểu thuyết “Những bức tường lửa”, “Góc tăm tối cuối cùng” và nhiều phần thưởng cao quý khác.
Khép lại bài viết tưởng nhớ về nhà văn Khuất Quang Thuỵ, người lính cầm bút miệt mài lao động sáng tạo trên cánh đồng chữ nghĩa, ông là người lặng lẽ viết, lặng lẽ làm việc một cách miệt mài. Chúng tôi vẫn luôn tâm niệm và suy ngẫm về những gì ông nói, không chỉ cho riêng bản thân mình mà đó còn được coi như những chỉ giáo, di huấn cho những người lính viết văn như chúng tôi sau này: “Nghề viết nếu được coi là một nghề, thì đó là một nghề nhọc nhằn. Tuy vậy, cũng là một nghề đem đến nhiều niềm vui và hạnh phúc. Tôi đi vào nghề này không phải sự tình cờ, khi còn là lính chiến trường, tôi chỉ viết vì một khát khao duy nhất: Ghi lại được càng nhiều càng tốt những kỷ niệm, những con người, những cảnh ngộ số phận éo le do sự khắc nghiệt của chiến tranh đưa đến. Sau này, khi chiến tranh kết thúc, tôi mới có điều kiện để hiểu ra rằng cuộc chiến ngoài mặt trận dù có ác liệt đến mấy thì cũng mới là một nửa cuộc chiến tranh. Vì thế tôi dành nhiều thời gian để viết nhiều hơn về cái nửa “còn lại” ấy. Một cuộc đời cầm bút, chỉ loay hoay trong hai mảng đề tài ấy đủ ngợp rồi. Nhưng biết làm sao, đó là số phận của thế hệ những người cầm bút từng có những năm cầm súng như chúng tôi” (Suy nghĩ về nghề - Sách Nhà văn Việt Nam hiện đại - Hội Nhà văn xuất bản, 2007, tr.974).