Thứ 6 - 26/02/2016
Màu đỏ Màu xanh nước biển Màu vàng Màu xanh lá cây
Chào mừng kỷ niệm 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025)
Chào mừng Đại hội Hội Văn học Nghệ thuật Đồng Nai lần thứ VII (nhiệm kỳ 2025 - 2030)
“Rực rỡ sắc mai vàng, mừng Đảng, mừng Xuân, mừng Đất nước vươn cao tầm đổi mới; Thắm tươi màu cờ đỏ, chúc Đoàn, chúc Hội, chúc Đồng Nai nỗ lực để thành công" (Dương Thanh)
XUÂN ĐẾN CÙNG AI

 

Tôi vẫn có thói quen đi bộ vào tầm tám giờ tối. Nhưng đêm nay - Ba mươi Tết, lí do ấy chỉ là cái cớ. Tự dưng cái tuổi tóc trắng bóng chiều lại bâng khuâng khi “nghe không gian mênh mông trong lời ca yêu thương đến với muôn người, đến với muôn đời, xuân ước vọng ngàn năm lại tới, nghe lòng vui phơi phới... nắng đã lên rồi, mừng Xuân hát lên thôi..."  nên muốn thị sát cảnh đón Tết dọc lối phố mình. Đèn đường, đèn cổng, đèn sân, đèn nhà, kể cả những chiếc đèn kiểu trang trí thường nằm ngủ, bỗng đua nhau khoe sáng. Lối phố đêm Ba mươi sáng trưng như ban ngày. Nhà nào cũng mở toang cửa lớn, nên nhìn từ xa cũng thấy rõ: những dáng mai, thế đào, chậu lan rất đẹp; những cặp chậu cúc đại đóa to đến hai người ôm mới xuể; những gốc quất trĩu quả... Dù thú chơi hoa Tết, mỗi nhà mỗi vẻ, nhưng nhà nào cũng có. Điều làm tôi ngạc nhiên, chộn rộn nhất là: bà già Thân không con, ngoại tám mươi; ông “Lang-còm-vé-số" độc thân; mẹ con “Lượm-Lùng-ve-chai" không chồng, không cha... năm nào cũng chỉ thấy đơn côi lọ cúc vạn thọ như ở nơi nghĩa trang, mà năm nay cũng trưng những gốc mai, cành đào đẹp hẳn đến cả tiền triệu. Gặp tôi, họ đều chào rất tươi và bảo “về chuẩn bị đốt pháo hoa thầy ơi, sao thầy nghiện đi bộ thế?". Lần đầu tiên bắt gặp niềm vui rạng rỡ trên khuôn mặt những đối tượng “góc khuất", “số phận" này, làm tôi xốn xang vô cùng. Thì ra, chẳng ai thờ ơ với Tết. Tôi thoáng nghĩ: ai đó cứ bảo bỏ Tết “Ta" nhập vào Tết “Tây" đi?! Sao họ không nhận ra Tết Việt đã trở thành Hồn Việt! Dù hoàn cảnh nào: sang - hèn, giàu - nghèo, già - trẻ, trình độ nhận thức khác nhau... thì hầu như tất cả đều sắm sửa và bâng khuâng khi Tết đến, Xuân về. Dạo đủ, tôi hăm hở về nhà không phải vì lời khuyên của họ mà vì lâng lâng một ý nghĩ muốn giãi bày với vợ.

***

Tết nào vợ tôi cũng tất bật đến tận lúc đón giao thừa. Chẳng phải vì mua sắm, thịt thà, bánh trái... mà chỉ mỗi chuyện hiếu - lễ - nghĩa hết nội, ngoại và bạn bè thân quen. Rồi, cái gì đầu năm cũng phải sạch sẽ tất thảy từ lớn, nhỏ, đến tấm mén. Hết lau chùi các ngóc ngách nhà cửa lại giặt giũ rèm, màn, chăn, gối... Đến cả cái giẻ lau sàn cũng phải thật sạch. Năm nay, các công việc kể trên bà đã xong từ ngày Hai mươi bảy Tết. Hẳn như bà có ý dành thời gian còn lại để tạo một gia cảnh đón Tết sang trọng. Từ cái ly, cái tách, đến các loại mứt, kẹo, hạt, sâm banh, rượu nặng... đều là những thứ hàng hiệu nổi tiếng. Chưa hết, tôi đã mua gốc đào đâu ít tiền, thế mà bà còn chở về gốc mai, ai cũng trầm trồ bảo bà chịu chơi. Tôi ngạc nhiên với sự lạ lùng, trái với bản chất bình dị, né tránh phô trương xưa nay của bà:

- Quý bà đại gia chịu chơi nhỉ? - Tôi cố ý móc máy.

- Tiền từ công sức mồ hôi thì cứ tiêu. Chết có mang theo được gì đâu mà ki bo hở ông.

- Năm nay tôi cố ý chơi hương vị quê nhà mà bà lại không thích.

- Tôi vẫn thích đào mà ông.

- Vậy sao lại mua thêm mai?

- Đó là ước mơ của bà ông ạ. Ông còn nhớ đêm giao thừa chúng ta không ngủ vì mong chờ nhành mai sẽ nở hoa vào sáng mồng Một không? Câu hỏi của bà như lệnh máy tính làm bộ nhớ tôi bị kích hoạt ngay. Hình ảnh cành mai héo lộc, nụ rụng lả tả, đi ngược lại với nguyện vọng chúng tôi sáng mồng Một Tết ấy, hiện về. Tôi bỗng cay mắt không thể nói thêm được gì. Đó là câu chuyện về gia cảnh của chúng tôi gần bốn mươi năm về trước:

Đều cùng giáo chức giảng viên, tiếng là trí thức có nghề nghiệp sang trọng, có lương thưởng chế độ nhưng cuộc sống chúng tôi khác nào “dân bụi". Lành đến với tôi chẳng khác gì “Vợ nhặt" của Kim Lân. “Cưới" chỉ là cách gọi cho hai người khác giới ở với nhau hợp lệ. Tình cảnh bốn bàn tay trắng, sui gia xa ngái và đều nghèo, tàu xe đi lại gian truân như đi lên trời... thì đành nói dối cho khỏi bẽ bàng. Về quê, bảo “đã làm đám cưới ở trong Nam". Vào Nam, trình diện hai cơ quan lại bảo “đã cưới ngoài Bắc". Dãy nhà tập thể thời bao cấp mái tôn, nền tráng xi-măng, căn phòng cuối 28 mét vuông được phân cho vợ chồng trẻ chúng tôi là sung sướng lắm rồi. Tài sản “ngày cưới", chúng tôi có hai chiếc giường đơn, một cái bàn nứt mặt cùng hai chiếc ghế chân lung lay đều là gỗ tạp đã có sẵn trong căn phòng; một cái chậu nhôm và một chiếc bình thuỷ được bạn bè tặng. Hai chiếc giường đơn, ngày hôm sau tôi ghép thành chiếc giường đôi bọc giả gỗ mà được cả khu tập thể ca tụng như tài năng xuất chúng của một kĩ sư Bách khoa, làm tôi cứ buồn cười. Đúng là hết tuần “trăng mật", thì đến tuần “mửa mật". Thời gian đầu son rỗi còn tươi tỉnh, “điếc không sợ súng". Nhưng khi đứa bé ra đời, chúng tôi rơi vào hoàn cảnh “hoạ vô đơn chí" khốn đốn đến tận cùng. Cái thời ngăn sông cấm chợ, muốn làm mướn cũng chẳng có chủ thuê nên mọi chi tiêu chỉ trong đồng lương ít ỏi nghề giáo và trông mong vào chút tiền dư giờ nhưng hết học kì mới được thanh toán. Tôi vốn có tiền sử bệnh hen nên khi cùng vợ ráng sức đủ thứ việc: chăm con, đưa con đi trẻ, tăng gia rau cỏ và đặc biệt ngày nào cũng gào thét đến sáu bảy tiết giảng, thở trong bụi phấn như bột mì rây để có dư giờ… đã làm bệnh hen trở lại và ngày càng nguy kịch. Vài tuần lại phải chở tới bệnh viện cấp cứu cắt cơn hen. Tuy thế, ra viện lại vội vàng lên lớp. Lên lớp như điều kiện sống còn. Vì thế cơ thể tôi lêu hêu bộ xương và trở thành “con bệnh" thường trực, bất thường, phải đưa đến bệnh viện có khi đang trên bục giảng, có khi giữa đêm khuya hoặc bất cứ lúc nào. Đã “tứ cố vô thân", lại “hoạ vô đơn chí". Chồng bệnh tật, vợ thất nghiệp vì giải thể Tổ giảng viên tiếng Nga sau khi Liên Xô tan rã. Phía gia đình chồng cha mẹ tuổi “chuối chín cây", ông mù, bà què, ăn nằm một chỗ, nương nhờ chị dâu cả chăm sóc, đang vò võ trông chờ vào thằng con trai kĩ sư giỏi giang làm việc ở Sài Gòn giàu có (tức tôi). Phía gia đình vợ, hai cụ cũng đang xang bang vỡ nợ vì nuôi đàn con ăn học đại học.

Tủi thân nhất là ngày Tết. Năm đó, Hai mươi chín Tết tôi mới ở bệnh viện về. Chiều Ba mươi, Vân - chị bạn của Lành làm văn phòng khoa đi ngang qua căn hộ chúng tôi lên tiếng:

- Lành ơi, mày đi theo về nhà tao, tao bảo lão Long (chồng Vân) chặt cho một nhành mai đem về mà chưng Tết, chứ sao để lạnh lẽo ảm đạm thế này?

- Dạ, em cảm ơn chị - Lành hí hửng đi theo Vân.

Một chốc, Lành cầm về một nhành mai, nụ mới nhú, chưa nở bông nào, bảo tôi: “Anh đốt gốc cho nó ra nhựa, rồi cho vào lọ nước, sáng mai sẽ nở hoa". Tôi làm theo đúng lời dặn, rồi đặt bình mai vào vị trí trang trọng. Căn hộ chúng tôi chẳng khác nào kí túc xá sinh viên, không ti-vi, không radio, đèn điện bóng tròn 60W dùng cũng tiết kiệm, nên thức đến 22 giờ chúng tôi tắt điện lên giường. Con nhỏ chưa hiểu gì hết nên í éo, mệt lại ngủ, còn chúng tôi đều thao thức hi vọng sẽ có cành mai rực rỡ đầu năm lấy hên, sang canh tư mới chợp mắt. Tờ mờ đã dậy ngắm mai, nhưng điều chúng tôi mong không đến. Về chiều, nhành mai rũ xuống, lộc quăn queo, nụ buông cành lả tả như khóc với thân phận bị ép nở hoa. Và giọt thầm của chúng tôi cũng lặng lẽ rơi cùng mai. Thương Lành vô duyên vì nửa mảnh đời lại gắn với tôi, định nói lời an ủi, nhưng rồi tôi bỗng cất tiếng hát hoà cùng làn điệu radio nhà bên cạnh: “Bên em anh gần mãi, nên đời vẫn... đời vẫn... xuân trào". Lành cười tươi, vuốt lên má tôi: “Tưởng ba khóc cơ" và hát lại câu ấy: “Bên anh em gần mãi, nên đời vẫn... đời vẫn... xuân trào", đổi “em" sang “anh" làm tôi bật khóc...

***

xuân đến cùng ai - Phạm Công Hoàng.jpg

Minh họa: Phạm Công Hoàng

Hơn vài tuổi, là nhân viên văn phòng, nhưng Vân có cuộc sống khác hẳn giảng viên Lành. Vân son phấn thơm tho, trang phục kiểu cách, mỗi ngày mỗi bộ khác nhau, thư thái hát cười. Còn Lành lúc nào cũng tất bật, có khi đầu không kịp chải, vài bộ đồ cứ mặc tới mặc lui. Long - chồng Vân là một vị quan lớn. Phải chăng cái tên vận vào phận người nên Long - Vân (Rồng - Mây) thì tuyệt đỉnh, còn chúng tôi Bần - Lành (nghèo - hiền) ở tầng đáy xã hội. Nhà Long - Vân rộng rãi, mái ngói đỏ, tường đá rửa, cửa bằng gỗ quý, toạ lạc trong một khuôn viên thoáng đãng khoảng trên ngàn mét vuông. Thời bao cấp, có ngôi nhà như thế là hiếm lắm. Giá trị bộ sa-lông bằng gỗ nu và bộ bàn ăn bằng gỗ súc gõ đỏ, cũng gấp cả chục lần căn hộ xập xệ của chúng tôi vừa được mua hoá giá. Nội thất toàn hàng độc lạ ngoại nhập sáng loáng, chẳng thiếu thứ gì. Lành cứ ngắm nghía, sờ nắn tỏ ra ước ao bao giờ có được cái xoong, cái nồi, bát đĩa... như thế. Trái với cảnh nhành mai héo nụ của Bần - Lành, Long - Vân mai vườn rực rỡ, phòng khách còn có thế bon-sai hẳn phải mua đến hàng chục triệu đồng, càng làm chúng tôi tủi phận. Họ mời chúng tôi ăn Tết rất nhiệt tình mà tôi cứ ngượng ngùng mặc cảm. Long chúc tôi rượu ngoại chai to, rót bằng giá quay và hỏi tôi “rượu uống được không?". Tôi gật đại “ngon lắm" chứ chưa bao giờ dám nhìn vào thứ hàng xa xỉ ấy thì sao biết ngon, dở. Họ càng tỏ ra hiếu khách bao nhiêu, thì tôi càng buồn cho gia cảnh mình bấy nhiêu. Rất may con họ lớn chạy đi chơi hết nên chúng tôi không phải lì xì đáp trả để khỏi mặc cảm với cái ruột phong bì mệnh giá đã nhỏ mà mới cứng còn được, lì xì lấy hên sao lại dùng tờ tiền nhăn nheo cũ mèm đến thế. Thăm chúc nhau ngày Tết mà lòng tôi cứ mông lung buồn bã. Cảnh đối lập giữa hai phụ nữ làm tôi khổ tâm vô cùng. Bằng cấp, hiểu biết, lịch lãm, dung nhan, Lành đều hơn hẳn Vân mà sao duyên cô ta tệ hại thế? Vân lấy chồng thành bà Hoàng, còn Lành lấy chồng như “vợ nhặt". Tôi rất ghét người nhỏ nhen “sân si" thù tạc vì tức ăn, ghen ở, thực tâm mừng cho duyên Vân, nhưng lại xót xa thương Lành kém số. Tôi thấy như mình có tội và Lành là nạn nhân bị đánh lừa. Thuở bao cấp chẳng mấy ai giàu, thường là thiếu thốn, nhưng bi đát như chúng tôi thì chỉ có một. Bởi vậy, ngày nhà giáo 20-11, chúng tôi được Công đoàn cơ quan đến thăm với tiêu chuẩn gia đình nhà giáo có hoàn cảnh khó khăn nhất. Hoàn cảnh chúng tôi như thế kéo dài trên 20 năm: từ thập niên 80 đến giai đoạn đầu của thời đổi mới và gia đình Vân trở thành ân nhân của chúng tôi khi cần vay mượn tiền cấp thiết.

***

 Thời gian đầu xoá bỏ bao cấp, chúng tôi còn gian truân hơn bởi chưa thích nghi kịp, bởi sức khoẻ của tôi không đủ để bươn chải thâm nhập cơ chế thị trường. Chúng tôi cũng chỉ biết sống bằng nghề dạy học. Nhưng rồi, các trường dân lập phát triển rầm rộ, nhu cầu học thêm cũng nhiều, câu của người xưa: “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh" hoàn toàn chính xác. Nghề dạy học thời mở cửa đã giúp chúng tôi tìm ra đồng tiền sạch chân chính. Mới đầu, xin dạy thỉnh giảng ở các trường đại học, trung học phổ thông dân lập và cái bằng học thật của chúng tôi được lên ngôi, chúng tôi mở lớp luyện thi. Thu nhập chúng tôi nhờ đó được nâng lên, đời sống nâng cấp dần. Xe đạp được thay bằng “cánh én", rồi chuyển dần sang “đầu bằng", “kim vàng giọt lệ", đến “giấc mơ" (biệt danh dân gian gọi các loại xe máy hai bánh thời kì nước ta nhập khẩu “cup nghĩa địa"). Ba năm sau, chúng tôi mua được đất, rồi vài năm nữa xây được nhà kiên cố. Rồi tiếp đến nội thất: xoong nhôm hoen gỉ, bát đĩa méo mó, bàn ghế sứt mẻ... cứ từ từ được thay dần. Và ước mơ của Lành dần dần không còn là ước mơ nữa. Hoàn cảnh thời khó khăn buộc chúng tôi dừng lại chỉ một con gái độc nhất. Nhưng chính nhờ đó mà con gái chúng tôi có điều kiện để được nuôi dưỡng dạy dỗ trở thành “của để dành" quý giá: hiền thục, học giỏi, đoạt học sinh giỏi Quốc gia, được tuyển thẳng đại học, được du học có học bổng ở Anh quốc, có công ăn việc làm ổn định, có chồng con hạnh phúc. Khi mức sống đầy đủ, sức khoẻ tôi cũng tốt lên, cơ thể đầy đặn hồng hào, bệnh hen giảm hẳn. Mỗi năm đến dịp Ngày Nhà giáo Việt Nam, không gian tổ ấm của chúng tôi rực rỡ hoa thơm và tiếng cười nói học trò. Từ thuở rất nghèo, chúng tôi cũng chỉ nhận ở học trò và phụ huynh mỗi đoá hoa, chối từ tất cả món quà vật chất, nên hầu như được các em quý lắm. Trò cũ, trò mới, trò xa, trò gần ngày lễ, ngày Tết đến thăm chúng tôi chật cả trước sau. Mức sống và gia cảnh chúng tôi như được trời bù đắp: đầy đủ cả vật chất đến nụ cười. Không giàu, nhưng có nhà lầu, xe hơi, những nội thất mà vợ tôi ước mơ như của nhà Vân nay cũng đã sắm được. Có những thứ còn giàu hơn nhà ấy, đó là những giải thưởng về đời sống văn hoá tinh thần, về mái ấm hạnh phúc gia đình, trong đó hãnh diện nhất những giải thưởng không có khung treo mà nằm trong lòng người: sự tôn kính yêu quý của học trò. Chúng tôi đã dừng thỉnh giảng dạy thêm mặc dù được trả lương cao. Lành dành thời gian để chăm cháu ngoại. Còn Bần tìm đến thú vui sách vở, viết lách, cờ tướng, giao lưu bạn bè...

***

Lành ngả lưng trên chiếc ghế mềm thích thú với Táo Quân trên màn ảnh ti-vi. Đây là lần đầu tiên bà ấy có chút thư giãn như thế, nên tôi cố ngồi xem cùng, cũng tỏ ra chăm chú vào màn hình, cũng há miệng hả hê mỗi khi thấy bà cười để làm bà vui. Thực ra, trong đầu tôi đang tua lại cái băng nhớ về cành mai héo nụ. Đợi khi hết Táo Quân, tôi sẽ giãi bày cùng bà nỗi niềm của mình. Nhưng hết Táo Quân bà đứng dậy vẻ vội vàng: “Ông ơi, năm nay cúng giao thừa sớm để lúc giao thừa cả nhà cùng cháu ngoại ngắm pháo hoa ông nhé". Nói xong, bà xuống bếp liền, nên tôi lại phải chờ đợi. 22 giờ, bà đã bày xong mâm cỗ. “Sớm thì cũng chỉ mươi phút thôi, chứ sớm nữa đâu phải cúng giao thừa". - Tôi nói vậy và định bắt chuyện với bà. Bà lại ngắm cây mai, vuốt ve, ngửi hương, tỏ vẻ mãn nguyện lắm. Bất chợt, như nhớ ra còn quên gì đó, bà choàng thêm áo, dắt xe máy ra và nói với tôi: “Ông nhớ cúng sớm nhé, bà có chút việc, đi ra một chút rồi về đón giao thừa". Bà vẫn thường như thế, có khi một thoáng về liền, nên tôi cũng chẳng hỏi bà đi đâu. Nhưng tôi cúng xong, chẳng nghe tiếng bà về. Thường năm, tôi cúng xong, bà khấn tiếp, rồi hoá vàng, rồi cúng ông thiên, ông địa, vong vãng lai. Đúng 0 giờ bà vẫn chưa về. Tôi bắt đầu lo. Xong lời chúc Tết của Chủ tịch nước, vẫn không thấy bóng bà. Cả nhà tôi lo thật sự. Gọi điện thoại, chuông đổ trong nhà, bà không mang điện thoại theo người. Dặn con cháu ở nhà lo hương khói giao thừa để ông đi tìm bà, tôi dắt xe ra khỏi cổng, nhưng biết chạy hướng nào? Xộc vào nhà ai ở thời điểm tâm linh này? Tôi nghĩ nên gọi điện thoại trước. Đầu tiên, tôi gọi điện cho Hoa - cô bạn đồng môn, đồng nghiệp, đồng tuổi, thân như người nhà. Nghe đúng tiếng người nhận, sau lời dạo đầu chúc mừng năm mới, tôi cố ý nói dối: “Lành bảo sang nhà Hoa xông nhà năm mới, mụ tới chưa?". “Chưa thấy anh ạ". Vậy bà ta ở đâu? Tôi hoang mang, run bần bật, nổi gai ốc, nhưng vẫn tỏ ra không khí đầu năm, chúc thêm lần nữa trước lúc cúp điện thoại. Não bộ căng ra suy đoán. Vì sao sau khi ngắm cây mai, Lành như sực nhớ ra điều gì rồi ra đi? Có gì liên quan đến cành mai héo nụ không? Tôi quyết định chạy xe đến nơi ấy, tìm người phải bất chấp mọi sự ái ngại. Lối phố vẫn ồn ào, kẻ đốt pháo, người reo hò, người ca hát. Khi mức sống càng cao thì thiên hạ đón Xuân càng vui, chẳng còn thấy cảnh chạnh lòng như thời kham khó. Bỗng gặp cảnh đối lập, cả một không gian tối om như không phải đêm giao thừa. Dù xác định đúng vị trí nhà Vân, nhưng tôi cứ ngỡ bị lạc. Tôi bấm chuông, tuýt còi inh ỏi, Vân ra mở cổng mời tôi vào. Khu biệt phủ đài các ngày thường vẫn sáng điện suốt đêm mà nay như khu vườn hoang, đèn chỉ sáng mỗi nhà chính. Trong nhà chỉ có mỗi Lành. Thấy tôi Lành lên tiếng: “Xin lỗi ông, bà quên điện thoại ở nhà nên không báo cho ông được". Bà muốn nói thêm gì nữa nhưng dừng lại. Dù đàn ông nhưng tôi cũng chạnh lòng trước cảnh ngộ này nên hiểu được nhà tôi muốn nói gì. Lành ở lại đón giao thừa với Vân cũng phải. Vân xuống sắc thậm tệ, ngồi ủ rũ bất động như một cái bóng. Ngôi biệt phủ càng cao rộng thì bóng Vân càng nhỏ lại và sự ảm đạm lạnh lẽo càng bao trùm. Thấy không gian ba người im ắng như giận nhau, tôi muốn bắt chuyện mà chẳng biết nói gì, lại hỏi: “Hai đứa Tết nay không về hả em?". Lành đứng lên, giẫm vào chân tôi ám hiệu câu hỏi hớ và cố lấp: “Thôi chị Vân đi nghỉ cho khoẻ, năm mới chúc gia đình ta khoẻ mạnh, may mắn, vạn sự an lành. Em xin phép về vì cháu cưng đeo bà lắm, chắc đang khóc tìm bà, tối mai em lại sang với chị". “Thôi bà cứ ở đây với bà Vân cho hết đêm giao thừa, ở nhà ông cháu và cha mẹ nó có số người gấp đôi đây rồi". Bà Vân lên tiếng: “Em bảo Lành về trước lúc giao thừa mà nó cứ không chịu anh ạ. Lành về đi đừng để cháu nhỏ mong bà". Kết quả, Lành ở lại với Vân, tôi ra về.

***

Cứ tưởng mệnh số Bần - Lành mới “hoạ vô đơn chí", nào ngờ Rồng - Mây còn bi đát hơn. Công cuộc chống tham nhũng không có vùng cấm nào chừa ai đâu. Tháng trước ông Long “vào lò", thì tháng sau con trai ông (du học về được cài đặt cán bộ quy hoạch) cũng bị gọi tên, rồi đứa con gái doanh nhân tỉ phú cũng sa lưới. Thiên đường và địa ngục hoá ra thật mỏng manh...

Trên đường về, gà đã cất tiếng đón chào bình minh ngày đầu năm mới, dân tình hầu như không ngủ, pháo hoa vẫn bất chợt rực lên, người đi lại ngoài đường vẫn đông. Lòng đời rạo rực cùng lòng Xuân, niềm vui tỉ lệ thuận với mức sống, tiếng hát cứ vút cao “Đời vui náo nức sức sống đang trào dâng... Tương lai sẽ ngập tràn một niềm vui bao la". Tưởng rằng đã đến thời Xuân đến với tất thảy mọi nhà. Vậy mà... tôi bỗng nhận ra nhành mai héo nụ năm xưa chưa phải là điều đáng buồn, chậu mai bon-sai rực rỡ mới là điềm báo bất hạnh. Khái niệm sướng - khổ cứ mông lung trong tôi, không đồng lõa với tội phạm nhưng nước mắt tôi trào ra...

N.D.Đ

Nguồn: Văn nghệ Đồng Nai số 85 (Tháng 3 năm 2025)

 


NGUYỄN DUY ĐỒNG
Object reference not set to an instance of an object.

Liên kết webiste

Thăm dò ý kiến

Đánh giá về trang thông tin điện tử Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đồng Nai

 

Số lượt truy cập

Trong ngày:
Tất cả:

HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT ĐỒNG NAI
Địa chỉ: 30 Đường Nguyễn Ái Quốc, P.Tân Tiến, Thành phố Biên Hoà, Đồng Nai
Điện thoại : 02513.822.992; Email: hvhnt@dongnai.gov.vn
Chịu trách nhiệm xuất bản: NSND. Đạo diễn Giang Mạnh Hà – Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đồng Nai.
Trưởng Ban biên tập: Trần Thu Hằng​​