Ông ngoại trở về khi tôi lên bốn tuổi. Từ đó, tôi thường được nghe ông kể về những câu chuyện chiến trường, bom đạn. Ông tôi là thương binh - người lính trở về sau khi đã để lại một phần thân thể trên chiến trường miền Đông Nam bộ. Chiến tranh đã đẽo gọt một phần cơ thể và cả tâm hồn ông. Cũng bởi vậy mà những câu chuyện ông kể vừa hào hùng, vừa day dứt, đau thương…
Tôi không như những đứa trẻ đồng trang lứa, có tuổi thơ gắn với những câu chuyện cổ tích hay thần tiên. Tuổi thơ tôi là những buổi chiều cùng ông ngoại ngồi bên bếp lửa, nơi có khói lam chiều phủ lên mái nhà, cuốn cả câu chuyện dài về những ngày đi bộ đội của ông. Ông ngoại tôi có tài kể chuyện. Ông kể khá dí dỏm, sinh động. Mỗi lời kể của ông hệt như những thước phim sống động khiến đứa trẻ như tôi rất thích thú, chăm chú lắng nghe. Ông kể: “những ngày hành quân xuyên rừng, ông và đồng đội phải thường xuyên chịu cảnh thiếu thốn thức ăn cùng những trận sốt rét hoành hành. Khi trăng lên, cũng là lúc người lính nhớ về những người thân yêu, về quê hương nơi khuất xa chiến trận. Chỉ tiếng động nhỏ hay tiếng bước chân cũng khiến cho cả đơn vị căng thẳng tột độ". Tôi có cảm giác đối với ngoại, mỗi đêm trôi qua là những “đêm hành quân không ngủ".
Khi tôi lớn hơn một chút, ông kể tôi nghe về những khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước. Những năm tháng đó, Căn cứ Khu ủy miền Đông và Chiến khu Đ là một trong những căn cứ địa chiến lược quan trọng của cách mạng miền Nam Việt Nam. Và chính ông, một chiến sĩ sinh ra, lớn lên ở Đồng Nai, đã góp mặt trong cuộc sống, chiến đấu trên các mặt trận lớn nhỏ đó. Nhưng có lẽ trận tiến công sân bay Tân Sơn Nhất là một trong những trận đáng nhớ nhất của ông tham gia Tết Mậu Thân (1968).
Ông cho biết, hôm ấy, ông cùng đồng đội băng qua mấy lớp rào kẽm gai mỏ quạ, rào bùng nhùng gai ngược gai xuôi sắc nhọn quanh sân bay dưới làn đạn dày đặc từ lô cốt địch. Thế mà ta vẫn vượt thoát, vẫn không ngừng tiến công. Khi tiến vào đến sân bay, từng trận giáp lá cà diễn ra quyết liệt, ánh đèn pha kết hợp pháo sáng, lửa đầu nóng súng máy xé toạc cả bầu trời đêm. Sau những tiếng nổ đinh tai chát chúa, người thì bị thương, người hy sinh, có người mất tích chẳng thấy đâu cả… Tôi nhận thấy, mỗi lần nhắc lại chuyện ấy, ông thường ngoảnh mặt ra nơi khác như cố giấu những giọt nóng ngầu đục trong khoé mắt ông. Nhưng làm tôi xúc động và khóc theo là khi ông nghiêm nghị nhìn tôi, giọng chùng xuống, rất thấp: “Những người nằm xuống khi ấy có người chỉ trạc tuổi cháu thôi! Ông đau nhất phút giây sinh tử ấy, nghe rất rõ tiếng đồng đội mình bị mảnh đạn pháo đau đớn trong khi pháo nổ liên tục khiến cả hai chân ông cũng đứt lìa, sự đau đớn khiến ông không thể cứu lấy những người anh em đồng đội…". Lúc ấy tôi chỉ mới 16 tuổi, đôi mắt cũng đỏ hoe. Dù chưa từng sống trong cảnh chiến tranh, nhưng tôi thấm cùng nỗi đau của ông. Tôi lại nhớ nhà văn Chu Lai từng nói: “Chiến tranh là gì? Là ngày nào cũng chôn nhau mà chưa đến lượt chôn mình", thật khủng khiếp. Không đau đớn làm sao được!
Với ông, không chỉ nỗi đau thân thể, nỗi đau lớn nhất chiến tranh để lại là sự chia lìa. Ông đã mất liên lạc với gia đình và sống cô độc suốt hơn 20 năm kể từ khi chiến tranh kết thúc. Hai thập kỷ, một quãng thời gian gần bằng nửa đời người, khiến cho người phụ nữ như bà tôi phải sống trong đợi chờ và nhung nhớ, để một đứa trẻ như mẹ phải sống trong sự thiếu thốn tình yêu thương của cha. Trước ngày nhập ngũ, ông bà ngoại có với nhau 2 người con, mẹ tôi là con gái cả. Sau mẹ còn có cậu em trai. Chiến tranh chẳng những lấy đi của ông đôi chân và lấy đi của bà tôi sinh mệnh của đứa con trai út. Ngày ra đi, bà mới ngoài đôi mươi, ông hứa sẽ trở về! Vậy mà bom đạn, giặc dã đã phá tan lời hẹn ước ấy.
Ông mang vết thương chiến trường về trại phục hồi thương binh mà chưa thể quay về nhà. Ông nhớ vợ, con, quê hương, làng xóm và chỉ biết trút nỗi nhớ ấy qua những lá thư tay. Tiếc là những cánh thư mãi không thể trao đến tận tay bà vì chiến tranh liên miên, cả hai người đều phải thay đổi nơi ẩn náu liên tục.
Đất nước hòa bình, bà dắt mẹ tôi dò hỏi tin tức về ông nhưng đều bặt vô âm tín. Bà còn nhớ cả những tiếng lá xào xạc ở rừng Chiến khu, nhưng vết cứa và niềm vô vọng tìm ông ở trong tâm trí bà, khiến nỗi nhớ càng thêm day dứt. Tin tức về ông cứ thế bị khói lửa chiến tranh lấm láp mờ nhoà, nhưng linh cảm của bà luôn mách bảo rằng ông chưa thể chết, rằng ông vẫn còn sống trở về. Bà từ chối mọi lời ngỏ ý của những người trai khác, vẫn hi vọng dù mong manh, chờ ngày đoàn tụ.
Như lời đầu kể, mãi đến năm tôi bốn tuổi, gia đình tôi mới có tin tức về ông nhờ vào mục “Tìm người thân" trên Báo Đồng Nai. Lần đầu tiên sau hai mươi năm, ông gặp lại bà, gặp lại mẹ tôi, đứa trẻ ngày ông rời đi nay đã trưởng thành, đã có gia đình riêng. Và tôi, đứa cháu ngoại ông chưa từng biết mặt. Tôi nhớ rất rõ ngày đầu tiên ông về, cái dáng người gầy guộc, đen nhẻm, đôi bàn tay run run ôm chặt lấy bà tôi. Ông hỏi:
- Thằng út đâu rồi bà?
Câu hỏi khiến nỗi đau suốt hơn 20 năm trong bà trỗi dậy. Bà ôm chặt ngực, nước mắt lăn dài trên hàng mi, bà rấm rứt:
- Nó mất từ lúc mới lọt lòng ông ạ!
Ông bà đứng đó, không nói được gì, chỉ khóc. Giọt nước mắt đời người.
Những năm tháng sau đó, dù gia đình được ở bên nhau nhưng vết sẹo chiến tranh không thể xoá nhoà. Ông bà ngoại không thể quay về những tháng ngày tuổi trẻ, không thể bù đắp cho những khổ cực bà đã trải qua để nuôi mẹ tôi khôn lớn, không thể thay đổi những khoảng thời gian đau ốm, bệnh tật của ông khi không có bóng dáng ai bên cạnh an ủi, chăm sóc. Còn bà và mẹ tôi, hai người phụ nữ với trái tim yếu mềm nương vào nhau, cố gắng trở nên kiên cường, vượt qua giông bão cuộc đời. Hai thập kỷ ấy như một hố sâu mất mát không thể lấp đầy.
Kể từ ngày gia đình đoàn tụ, cha mẹ tôi đã chuyển hẳn về sống với ông bà ngoại. Ông luôn cưng chiều tôi nhất, như muốn bù lại những gì mất mát mà bà, mẹ tôi và tôi chịu đựng. Ngoài những lúc đi học, tôi cứ luôn quanh quẩn bên ông, nghe ông kể chuyện, học làm diều giấy, cào cào lá dứa và ti tỉ những thứ hay ho khác. Khi tôi lên tiểu học, ông đăng ký học bổ túc văn hóa vào buổi tối, mặc cho bà can ngăn vì lo lắng:
- Chân cẳng ông như vậy, đi làm sao được mà học?
- Tôi đi học để còn dạy học cho cháu tôi chứ, sách mới bây giờ khó lắm, có nhiều kiến thức tôi không còn nhớ nữa rồi.
Suốt 12 năm phổ thông, ông là người thầy dạy tôi học. Mỗi lúc tôi chán nản muốn bỏ cuộc, ông nói:
- Ai sống trên đời này cũng phải tiến về phía trước. Ông không thể đi nhưng vẫn đang tiến về phía trước đây.
Hằng ngày, ông đều làm các công việc như rửa chén, ủi đồ, chăm sóc cây cối, nấu ăn... mà không cần đến sự giúp đỡ của bất cứ thành viên nào trong gia đình. Ông bảo đó là những việc mà hơn 20 năm nếu không lưu lạc thì ông đã làm. Tôi thì chua xót nghĩ, chính những năm ấy, ông chịu nhiều thiệt thòi, thế nhưng khi trở lại, vẫn chỉ nghĩ đến việc bù đắp cho những người thân yêu. Tôi lớn dần, được kết nạp vào Đội Thiếu niên Tiền Phong, rồi Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh... những cột mốc quan trọng của cuộc đời tôi luôn có ông bên cạnh. Ông chăm sóc, dạy dỗ tôi với ý chí và kỷ luật của một người lính. Ông thường bảo, là cháu của lính thì phải có khí phách của lính, tinh thần như thép nhưng con tim phải luôn ấm áp và đong đầy yêu thương. Yêu nước, yêu đồng bào, yêu tổ ấm, đó là ngọn lửa truyền đời không bao giờ được tắt.
Trải bao năm tháng, hình ảnh ông còn in đậm trong tâm trí tôi. Ông ngoại không chỉ là một người lính, mà còn là biểu tượng của tình yêu, của sự hy sinh âm thầm và lòng kiên nhẫn vượt thời gian. Mỗi lúc gặp khó khăn, chỉ cần nhớ về những câu chuyện ông kể về chiến trường và người lính, lòng tôi càng vững chãi, kiên cường. Những ký ức của ông và về ông là ngọn đuốc soi sáng đời tôi và cả gia đình. Giờ đây, mỗi lần nghe lại những ca khúc cách mạng, tôi như thấy mình nhỏ thó nằm trên chiếc võng ông đưa. Còn ông vẫn đang ngồi đó, đôi mắt hiền từ, nắm lấy tay tôi bằng đôi bàn tay đầy sẹo như chứng tích của chiến tranh, của một thời bom rơi đạn nổ, của sự chia lìa mất mát đau thương.
H.X
Nguồn: Văn nghệ Đồng Nai số 86 (Tháng 4 năm 2025)