Hơn 200 năm kể từ khi ra đời đến nay, đã có rất nhiều công trình,
bài viết của các học giả, nhà nghiên cứu, người yêu Truyện Kiều tham gia
bình, chú giải, tranh luận về câu chữ, sự kiện và điển tích Truyện Kiều.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc chú giải vẫn chưa thỏa đáng hoặc chưa
tìm được tiếng nói chung. Với bài viết này, tôi góp thêm lời bàn đồng thời làm
rõ thêm vài chi tiết liên quan đến hai từ "phù dung" và "đùng
đùng", mong được quý vị độc giả góp ý, trao đổi.
Về từ "phù dung"
"Vực nàng vào nghỉ trong nhà/ Mã Kiều lại ngỏ ý ra dặn lời /
Thôi đà mắc lận thì thôi / Đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh / Bạc tình nổi
tiếng lầu xanh/ Một tay chôn biết mấy cành phù dung / Đà đao sắp sẵn chước dùng
/ Lạ gì một cốt một đồng xưa nay / Có ba mươi lạng trao tay / Không dưng chi có
chuyện này trò kia".
Đó là mười câu, từ 1155 đến 1164, trích trong đoạn lời của Mã Kiều
- một gái làng chơi trong lầu xanh của Tú bà - nói với Thúy Kiều. Thúy Kiều trốn
khỏi lầu xanh trong đêm theo kế hoạch của Sở Khanh, bị Tú Bà cùng bọn tay chân
đuổi theo bắt lại. Tú bà hung hăng đang tay đánh Thúy Kiều đến "Uốn lưng
thịt đổ, dập đầu máu sa". Mã Kiều thương xót nàng nên phải đứng ra bảo
lĩnh, vực nàng vào phòng nghỉ, rồi nói rõ bộ mặt thật của Sở Khanh cùng màn kịch
mà Tú bà đã thuê Sở Khanh dàn dựng với giá ba mươi lạng cho Thúy Kiều biết.
Từ điển Tiếng Việt phổ thông - nhóm tác giả: TS. Chu Bích
Thu (chủ biên), PGS. TS. Nguyễn Ngọc Trâm, TS. Nguyễn Thị Thanh Nga, TS. Nguyễn
Thúy Khanh, TS. Phạm Hùng Việt - của Viện Ngôn ngữ học (tái bản lần thứ nhất,
tháng 8/2006) định nghĩa từ "phù dung" như sau: "Cây nhỡ, trồng
làm cảnh, cùng họ với cây bông, hoa to và có màu sắc thay đổi dần trong ngày, từ
trắng sang hồng, đỏ".
Từ điển chuyên ngành mở trực tuyến (Tra từ Soha) định nghĩa từ "phù
dung": "Cây trồng làm cảnh, cùng họ với cây bông, lá hình chân vịt,
hoa đẹp nhưng rất chóng tàn, có màu sắc thay đổi theo thời gian (buổi sáng nở
thì màu trắng, buổi trưa màu hồng, buổi chiều sắp tàn thì màu đỏ)..."
Bản Truyện Kiều Chú Giải của Lê Văn Hòe, giảng: "Phù dung:
là hoa phù dung. Hoa sen có khi cũng gọi là phù dung. Đây "phù dung"
là hoa phù dung. Bản của Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim chua (chú, từ cũ - TG) là hoa
sen, thì sai. Nếu là hoa sen, tất không có cành...".
Bản Truyện Kiều của Đào Duy Anh, chú giải từ "phù
dung": "một giống sen, hoa sen, dùng để tỷ dụ sắc đẹp của phụ nữ".
Bản Truyện Kiều của Hội Kiều học Việt Nam (Văn bản kỷ niệm
200 năm ngày mất đại thi hào Nguyễn Du) thì chú thích từ "phù dung":
"Phù dung: là loài hoa có sắc đẹp, thường ví với người con gái đẹp. Quốc Sắc
Thiên Hương Ký có câu "Nhất thủ nhi mai phù dung kỷ độ" (một tay mà
chôn cây phù dung mấy lần)".
Từ các viện dẫn trên, ta có thể khẳng định các học giả Bùi Kỷ, Trần
Trọng Kim và Đào Duy Anh (có thể còn nhà chú giải khác nữa?) đã nhầm khi chú giải
"phù dung" là một giống sen, hoa sen. Tôi đồng ý với nhận định của học
giả Lê Văn Hòe - nếu là hoa sen, tất không có cành - nhưng lại vướng phải chữ
"cành" trong câu ca dao "Đêm qua tát nước đầu đình/ Bỏ quên cái
áo trên cành hoa sen" và trong câu dân ca xứ Thanh "Lên chùa bẻ một
cành sen/ Lên chùa bẻ một cành sen, ăn cơm bằng đèn đi cấy sáng trăng". Vậy
phải lý giải chữ "cành" như thế nào đây?
Rất tình cờ và may mắn, tôi đã được đọc bài báo có tựa đề "Đã
tìm thấy "cành hoa sen" gây tranh cãi trong ca dao ở Hà Nội?" của
tác giả Hà Tùng Long, đăng trên "dantri.com.vn"
ngày 11/6/2016. Theo bài báo: Cách đây chừng 7 đến 8 năm (thời điểm báo đăng -
TG), trong hành trình đi tìm hiểu về các nghệ nhân hát xẩm, những câu hát xẩm,
hát trống quân..., nhà nghiên cứu âm nhạc Nguyễn Quang Long cùng các nhà nghiên
cứu văn hóa dân gian đã phát hiện cây hoa sen ở chùa Bối Khê, thuộc xã Tam
Hưng, huyện Thanh Oai, Hà Nội, cây được gắn biển "cây sen đất", có
nơi gọi là cây sen núi. Theo mô tả của nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Long: Cây
sen đất có thân gỗ, gần giống cây hồng xiêm, lá giống lá đa. Hàng năm, sen đất
chỉ nở vào mùa Hạ, từ tháng Tư đến tháng Sáu âm lịch. So với hoa sen sống dưới
nước thì hoa sen đất có cánh màu trắng và dày, nhị vàng, to tương đương sen nước,
cánh hoa khum khum như hai bàn tay chụm lại. Đặc biệt, nụ của hoa sen đất rất
giống nụ sen trắng dưới nước, thơm hơn sen nước nhưng đời hoa thì sớm nở tối
tàn. Như vậy đã rõ, cành cây sen đất này chính là "cành sen" trong
câu ca dao và dân ca nói trên.
Về từ "đùng đùng"
"Một mình cay đắng trăm đường/ Thôi thì nát ngọc tan vàng thì
thôi / Mảnh trăng đã gác non đoài/ Một mình luống những đứng ngồi chưa xong
/Triều đâu nổi tiếng đùng đùng/ Hỏi ra mới biết rằng sông Tiền Đường / Nhớ lời
thần mộng rõ ràng/ Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây".
Đó là tám câu, từ 2615 đến 2622, trích trong đoạn nói về tâm trạng
của Thúy Kiều trước lúc trẫm mình trên sông Tiền Đường, sau khi Hồ Tôn Hiến nài
tình không được, mới ép gả thô bạo nàng cho viên thổ quan (thổ tù).
Hầu hết các giả thuyết cho rằng, Nguyễn Du sáng tác Đoạn trường
tân thanh (Truyện Kiều) dựa theo cốt truyện Kim Vân Kiều truyện
của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Sau đây là trích đoạn trong Kim
Vân Kiều truyện, đoạn trước lúc Thúy Kiều tự vẫn: "Viên tù trưởng thấy
Thúy Kiều ủ liễu phai đào, trăm phần chẳng có phần nào phần tươi, cũng nể lòng
không nỡ ép sự trăng gió. Thúy Kiều bấy giờ một mình nghĩ ngợi đắng cay trăm đường,
chí đã nát ngọc tan vàng mới thôi, nhưng lại sợ có người cứu vớt (do biết Kiều
trẫm mình - TG) thời không được như ý. Ngồi mãi đến trống canh Ba, bỗng nghe có
tiếng sóng dội ầm ầm, từ cửa bể đến tòa Băng Sơn, vang sông dậy núi, nghe rất dữ
dội. Thúy Kiều thấy vậy càng thêm ngao ngán, nghĩ thầm rằng: Chân trời mặt nước
lênh đênh, nắm xương biết gửi tử sinh chốn nào? Nghĩ xong, nhân hỏi viên tù trưởng
rằng:
- Chẳng hay tiếng dữ dội đó là tiếng chi?
- Đó là triều tín!
Thúy Kiều nghe nói, liền tỉnh ngộ ngay, lại hỏi luôn rằng:
- Đây có phải là sông Tiền Đường không?
- Phải, chính phải! ..." (Hết đoạn trích).
Trong cuốn "Cõi người ta" (Tập 1) của Hội Kiều học
Việt Nam có bài "Bàn luận về hai chữ "đùng đùng" của tác
giả Trần Hạnh Nguyên. Tác giả viết: "... Nhưng còn một điều khiến mọi người
phải nghi vấn vào tài bút lực của tác giả Nguyễn Du, nhưng không ai dám nhúng
tay chỉnh sửa mà chỉ thấy thấp thỏm trong lòng: Sóng ở cửa sông Tiền Đường dẫu
mạnh mẽ đến cỡ nào thì cũng chỉ réo ầm ầm hay rầm rầm là cùng, đâu tới mức
"đùng đùng" như tiếng súng nổ, nghe quá lạ tai so với sự cảm nhận của
các văn sĩ xưa nay về các dòng sông thi ca...". Rồi tác giả cho biết:
"Trong một lần lên lớp về văn hóa thế giới ở Trường Viết văn Nguyễn Du
(Khóa III, năm 1989 - 1992), giáo sư Hoàng Thiếu Sơn đã rất vui mừng nói với
anh chị em học viên rằng: ông đã làm sáng tỏ được điều nghi hoặc trong câu lục
bát trên của Đại thi hào Nguyễn Du. Nhân một chuyến đi công tác tại Nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa, ông đã có dịp đến tận cửa sông Tiền Đường, tận mắt nhìn
ra trùng khơi mịt mùng sóng nước. Đứng trên bờ sông một lúc, bỗng ông giật mình
nhận ra sự nhạy cảm và bộ óc quan sát hết sức tinh tường của đại thi hào Nguyễn
Du. Thủy triều tại biển nơi cửa sông Tiền Đường đổ ra khơi có độ chênh cao trên
chục mét nước. Mỗi khi triều xuống, khối nước khổng lồ trên dòng sông Tiền Đường
đổ ra biển đúng là phát ra tiếng nổ "đùng đùng" như tiếng súng...
Không thể có âm thanh nào êm ái nhẹ nhàng như ta vẫn tưởng" (Hết đoạn
trích).
(Minh hoa: Phạm Công Hoàng)
Hồi thứ 119 truyện Hậu Thủy hử của tác giả Thi Nại Am - La
Quán Trung (Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga dịch), có đoạn viết: "Bấy giờ Tống
Giang và các tướng dẫn quân mã rời Mục Châu nhằm phía Hàng Châu tiến phát...
Chuyện trên đường đi không có gì đáng nói. Chẳng mấy chốc, đại quân về đến Hàng
Châu. Trương Chiêu Thảo đem quân mã vào thành. Tống tiên phong tạm đóng quân ở
tháp Lục Hòa, các tướng đều vào chùa Lục Hòa nghỉ ngơi. Tiên phong sứ Tống
Giang và Lư Tuấn Nghĩa hàng ngày hai buổi sáng tối đều vào thành nghe lệnh.
Lại nói Lỗ Trí Thâm và Võ Tòng cùng nghỉ ngơi một nơi trong chùa Lục
Hòa. Thấy ngoài thành phong cảnh núi sông tươi đẹp, Lỗ Trí Thâm trong lòng rất
thích. Đêm ấy trăng thanh gió mát, trời nước một màu, hai người ngủ yên trong
căn phòng. Đến nửa đêm, chợt nghe trên sông tiếng sóng cuộn ầm ầm (Lời thuyết minh
trong phim Tân Thủy Hử là "đùng đùng" - TG), Lỗ Trí Thâm vốn
là người đất Quan Tây, không quen tiếng sóng triều miền Chiết Giang, ngỡ là trống
trận, giặc giã nổi lên đâu đây. Lỗ Trí Thâm bèn chồm dậy cầm thiền trượng quát
lên một tiếng rồi chạy ra ngoài. Các sư sãi chùa Lục Hòa sợ hãi xúm đến hỏi:
- Sư phụ làm sao thế? Định chạy đuổi ai?
Lỗ Trí Thâm đáp:
- Lão gia nghe tiếng trống trận vội lao ra đánh!
Chúng tăng cười rộ bảo Lỗ Trí Thâm:
- Sư phụ nhầm rồi, không phải trống trận đâu! Đó là tiếng sóng (triều
tín) trên sông Tiền Đường đấy!" (Hết đoạn trích).
Đối chiếu các đoạn trích trong nguyên tác Kim Vân Kiều truyện
của Thanh Tâm Tài Nhân, hồi thứ 119 truyện Hậu Thủy Hử và bài viết của
tác giả Trần Hạnh Nguyên trong sách Cõi người ta (Tập 1), ta thấy có mấy
chi tiết trùng hợp thú vị: 1/ Cũng là thủy triều gây ra tiếng động "đùng
đùng", hay "ầm ầm"; 2/ Cũng trên sông Tiền Đường; 3/ Địa danh
cũng là Hàng Châu. Câu hỏi đặt ra là, tại sao tiếng sóng trong nguyên tác Kim
Vân Kiều truyện là "ầm ầm" mà Nguyễn Du lại sửa thành "đùng
đùng"? Theo bài viết "Đầu năm Quý Dậu 1813 Nguyễn Du đi sứ Trung
Quốc" của tác giả Thái Văn Kiểm (trong sách "200 năm nghiên cứu
bàn luận Truyện Kiều" do tác giả Lê Xuân Lít sưu tầm, tuyển chọn và giới
thiệu) thì lộ trình trở về nước sau khi đã tuế cống nhà Thanh, Nguyễn Du đã đi
qua Hàng Châu. Như vậy, cụ phải đi qua sông Tiền Đường và được chứng kiến cảnh
tượng sóng thủy triều vào dịp trung tuần tháng Tám âm lịch phát ra tiếng động
"đùng đùng". Vì thế, trong Đoạn Trường Tân Thanh cụ đã sửa
"ầm ầm" thành "đùng đùng" - điều tưởng chừng vô lý. Qua đó,
ta có thể khẳng định tác giả tả sự vật, hiện tượng trong Truyện Kiều bằng
sự quan sát tinh tế các hiện tượng tự nhiên, chỉ có điều đôi khi chúng ta chưa
hiểu hết mà thôi.
Nhân đây, tôi cũng đặt vấn đề: Thúy Kiều trẫm mình vào đêm nào của
tháng mấy âm lịch? Theo quy luật, trong khoảng thời gian 24 giờ, thủy triều lên
- xuống hai lần, con nước lớn nhất và ròng nhất ứng với ngày rằm rồi giảm dần đối
với các ngày còn lại của tháng. Quy luật này được các nhà khoa học lý giải là
do lực tương tác giữa trái đất và mặt trăng: Quỹ đạo quay của mặt trăng quanh
trái đất có hình e-líp, khoảng cách cực tiểu từ Mặt trăng đến trái đất ứng với
ngày rằm, khi đó lực tương tác trái đất - mặt trăng là cực đại, gây ra biên độ
con nước cực đại. Trong một năm, vào khoảng trung tuần tháng Tám là thời điểm
mà khoảng cách mặt trăng - trái đất nhỏ nhất, tương ứng với lực tương tác trái
đất - mặt trăng lớn nhất, theo đó sóng thủy triều trên sông Tiền Đường sẽ có
biên độ lớn nhất, gây ra tiếng động "đùng đùng". Như vậy, phải chăng
Thúy Kiều đã trẫm mình vào đêm trung tuần tháng Tám?
Sông Tiền Đường mà Nguyễn Du nói tới trong Truyện Kiều là
phần hạ lưu của sông Chiết Giang (Trung Quốc) chảy quanh co qua thành Hàng Châu
rồi đổ ra biển ở vịnh Hàng Châu. Tương truyền, ngày xưa sau khi Ngũ Tử Tư - Tướng
Quốc nước Ngô thời Xuân Thu (Trung Quốc) - tự vẫn do bị ép, Ngô vương Phù Sai
ra lệnh bỏ xác ông vào bao ném xuống sông Tiền Đường. Oan hồn Ngũ Tử Tư không
tan, ngày đêm thường dâng sóng gió trên sông nên sóng thủy triều sông Tiền Đường
nổi tiếng là nguy hiểm và dữ dội.
Cửa sông Tiền Đường có chiều rộng khoảng 100 km, càng vào sâu
trong đất liền, bề rộng của mặt sông càng thu hẹp nhanh và đột ngột, tạo thành
hình phễu. Với đặc điểm khác thường đó, sóng ở sông Tiền Đường dâng rất cao, tạo
ra cảnh tượng hùng vĩ đã nói ở trên.
Theo các nhà nghiên cứu, cường độ sóng thủy triều ở cửa sông Tiền
Đường chỉ xếp sau hiện tượng tương tự ở cửa sông Amazon. Vào dịp Trung thu,
sóng có biên độ lớn nhất năm và đạt đỉnh vào ngày 18/8 âm lịch - thời điểm mặt
trăng, mặt trời xếp thẳng hàng với Trái đất và lực tương tác với Trái đất cộng
hưởng vì cùng một hướng - nó có thể cao đến 10m với tốc độ di chuyển đến 40
km/h. Tiếng ồn của sóng giống như sấm, sét hay âm thanh của hàng nghìn con ngựa
chạy. Hàng năm vào ngày 18/8 âm lịch, hàng nghìn người bất chấp nguy hiểm đến
đây để tận mắt chứng kiến cảnh tượng thiên nhiên độc đáo, kỳ thú và ngoạn mục
này.
NGUYỄN VĂN THANH
(Nguồn: VNĐN số 55 – tháng 9 năm 2022)