Đỗ Ngọc Yên
(Nguồn: VNĐN số 13 – tháng 05 & 06 năm
2016)
23 phần khác nhau, khá rời rạc, như những
nhát cắt ngẫu nhiên, không giống các chương hồi trong tiểu thuyết truyền thống,
cũng chưa hẳn là những truyện kể, được nhà văn Nguyễn Một nhốt vào trong một
cái rọ chung gọi là Ngược Mặt trời.
Với tiểu thuyết này, anh đã tạo nên một sự cách tân thực sự về thủ pháp nghệ
thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
I.
Có
lẽ đây là cuốn tiểu thuyết hiếm hoi trên văn đàn Việt Nam trong thời gian gần
đây mà tôi được đọc, đề cập một cách trực diện đến vấn đề khủng hoảng Đức Tin của
con người trong xã hội hiện đại, được thể hiện bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật
khác nhau. Thực ra, vấn đề khủng hoảng Đức Tin trong tình yêu, tôn giáo và đời
sống con người luôn tồn tại trong mọi thời đại, ở mọi quốc gia, dân tộc với nhiều
sắc thái khác nhau. Nhưng điều đó được đề cập trực tiếp trong các tác phẩm văn
chương Việt, nhất là thể loại tiểu thuyết lại không nhiều và cũng không mấy
thành công.
Đối
với Kito giáo, Đức Tin là hạt nhân cơ bản, là nguyên khởi của mọi hành vi con
người, cũng giống như Phật giáo khởi phát là Cái Tâm và Nho giáo là Cái Đạo vậy.
Nếu quan niệm tình yêu cũng là một tôn giáo, không có kinh kệ, giáo chủ và điện
thờ, thì đối với những người theo đạo Kito, tình yêu không thể tồn tại ngoài Đức
Tin..
Đức
Tin không cần kiểm chứng và cũng không thể sờ mó được, nhưng nó là một lực lượng
tinh thần vô cùng to lớn. Khi lực lượng tinh thần ấy chuyển hóa thành lực lượng
vật chất thì nó lại có sức mạnh gấp nhiều lần lực lượng vật chất như các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác đã nói. Theo
Kinh thánh, nếu không có Đức Tin, con người không những sẽ sống vô phương đích,
mà quan trọng hơn là khi ấy họ bị tước đoạt hết toàn bộ sức mạnh biến cải thế
giới làm cho cuộc sống này ngày càng đáng yêu và đáng sống hơn. Đức Tin luôn là
cái ngự trị vĩnh hằng trong đời sống tâm linh của người theo đạo Kito.
Điều
ấy giúp chúng ta lý giải tại sao một người như Nguyễn Chạc, nhân vật chính của
tác phẩm, suốt cả cuộc đời luôn tin vào sự tồn tại của cái làng Chạc Chìu, một
làng chỉ có trong tưởng tượng của anh ta, do sự ghép nối có vẻ như ngẫu nhiên
tên của mình, Chạc và tên của cô người yêu thưở thiếu thời, Chìu.
Nhưng
sẽ rất có lý, nếu nhìn điều ấy dưới một khía cạnh khác. Bởi lẽ điều
Nguyễn
Chạc quan tâm ở đây không phải là có hay không tồn tại một ngôi làng mang tên
Chạc Chìu, mà quan trọng hơn, ở chỗ sâu sa nhất, Nguyễn Chạc tin là đã từng có
thật một cái làng ấy trong tiềm thức của anh ta. Dù rằng nó đã bị biến mất, mà
chính anh cũng không thể nào biết được vì lý do gì, nên anh vẫn cứ đi tìm miết,
tìm hoài và càng tìm lại càng không thấy.
Sau
một thời gian kiếm tìm vô vọng, anh rời bỏ làng quê lên thành phố lang thang kiếm
sống và theo nghiệp văn chương - nghệ thuật. Sau hơn hai mươi năm, lần anh trở
lại xứ đạo Hòa Bình, mang theo giấc mộng tìm lại làng Chạc Chìu. Lúc này anh gặp
lại nữ tu sĩ Ngân Hà đã ở tuổi hai nhăm, vẫn với một vẻ đẹp thánh thiện, trong
suốt như pha lê tự thưở nào. Và theo lời sấm truyền của ông Bảy Đò, thì Ngân Hà
chỉ sống được đến năm 25 tuổi. Thế là Nguyễn Chạc quyết định ghi lại hình ảnh
người con gái sắc nước hương trời đó bằng những bức ảnh khỏa thân chụp ngược
sáng (antisoleil hay consoleil). Nhưng khi đang cùng Ngân Hà
chụp những bức ảnh ấy, thì Nguyễn Chạc bị bọn côn đồ tấn công, phải nhập viện.
Anh băn khoăn mãi về việc tại sao bọn chúng nó lại hại anh, ngăn cản không cho
anh thực hiện ước mơ đó. Người bạn quen nhau từ hồi ở thành phố biết tin anh bị
nạn đến chăm sóc và giải thích: Nếu tất cả
kẻ ác đều có thể bắt được hết thì thế giới này tốt đẹp từ lâu rồi, không chiến
tranh, không hận thù và thậm chí không cần cả tôn giáo (tr 202).
Còn
nhiếp ảnh gia Nguyễn Chạc thì luôn sống trong cõi mộng du của miền ký ức thẳm
sâu mà suốt bao năm anh không thể nào nguôi ngoai được: Trên tất cả những tấm ảnh anh chụp Hà trong buổi sáng hôm ấy chỉ toàn
là những cơn lốc. Và trong đám bụi mù của cơn lốc ấy, thấp thoáng những gương mặt
của những người thân quen trong cái làng Chạc Chìu đã biến mất. Lần lượt những
tấm ảnh khác cũng chỉ là những cơn lốc lớn và nhỏ khác nhau, với những gương mặt
của quá khứ chập chờn méo mó... Anh run run mở tấm ảnh cuối cùng, Ngân Hà xuất
hiện giữa cơn lốc với thân thể trắng và lấp lánh như thủy tinh…Và em bay thẳng
vào vùng sáng của mặt trời (tr 206- 207).
Khác
với Nguyễn Chạc là Hoàng Thạch, bố Hoàng Lan, Ngân Hà và bố cô Chìu, người yêu
đầu tiên của Nguyễn Chạc, cùng những tên cướp, bọn thổ phỉ là những người sống
không có Đức Tin, chí ít cũng là Đức Tin Kito giáo nói riêng và lòng tin vào
con người nói chung, nhất là sau khi hai vợ chồng người con gái lớn của ông là
Hoàng Lan và Trần Danh đột ngột chết thảm, ông càng không tin vào Đấng Cứu thế.
Đối với Hoàng Thạch chỉ có lòng thù hận và sống dựa vào sức mạnh cơ bắp và đồng
tiền, những mong thực hiện giấc mộng đưa cô con gái là nữ tu sĩ Ngân Hà ra nước
ngoài chữa bệnh tim bẩm sinh. Khi giấc mộng còn chưa thành, thì chính ông
đã bị lối sống không có đức tin quật ngã, bởi bàn tay tàn bạo của bốn tên thổ
phỉ.
Như
vậy có thể thấy, Nguyễn Chạc vừa là người đã từng đánh mất Đức Tin vào con người
và cõi đời này, khi luôn phải đối mặt với những cái mà chính anh cũng không thể
nào lý giải được như: tình yêu, chiến tranh, tội ác, tôn giáo, lòng trắc ẩn, sự
thù hận, thói đố kỵ,... đồng thời anh cũng vừa tự biến mình trở thành kẻ gánh
trên vai sứ mệnh truyền Đức Tin cho con người. Thế nhưng, anh càng tin bao
nhiêu thì lại càng hoang mang, hoảng loạn bấy nhiêu. Ngay cả đến những bức ảnh
cuối cùng anh chụp nữ tu sĩ Ngân Hà, tất cả cũng đều quay cuồng trong cơn bão lốc
của đất trời hay là cơn hoảng loạn của Đức Tin con người khi đã bị đánh mất
(!?).
II.
Những
dòng đề từ ngay đầu cuốn sách, nhà văn Nguyễn Một đã nói lên ý
đồ của anh: Cuốn sách này có thể làm phiền bạn vì
câu chuyện hoang đường và những mảnh chắp vá rời rạc của cuộc đời, như giấc mơ
buồn mà sau khi tỉnh dậy bạn không thể kể lại một cách trọn vẹn (trang 5). Nhưng sau khi
đọc hết cả 23 phần rời rạc của
Ngược Mặt trời, tôi thấy dường như lại
không phải như vậy, có chăng đấy chỉ là một cách nói khiêm tốn và cần thiết khi
anh đã mạnh dạn sử dụng các thủ pháp nghệ thuật phi truyền thống.
Trước
hết, với Ngược Mặt trời, nhà văn Nguyễn
Một đã sử dụng một cách khá thành công thủ pháp nghệ thuật cắt- dán (cut and paste). Sở dĩ tôi gọi là cut and paste vì các mảng khối của tác phẩm có vẻ như không ăn nhập
gì với nhau và có thể bóc tách ra, xếp lại theo một trật tự hoàn toàn mới, tạo
nên một Ngược Mặt trời khác. Cũng vì
thế mà Nguyễn Một không đánh số chương cho cuốn tiểu thuyết như cách làm truyền
thống. Mỗi phần của tác phẩm có thể coi như một truyện ngắn hoàn toàn độc lập.
Theo một góc nhìn nào đấy có thể coi Ngược
Mặt trời là sự tập hợp của 23 truyện ngắn khác nhau.
Tuy
nhiên, nếu như vậy ở đây sẽ xảy ra một vấn đề lý luận khá thú vị. Theo lý luận
về thể loại, tiểu thuyết là một tác phẩm nghệ thuật có kết cấu hoàn chỉnh, chứ
không phải là tổng số lắp ghép một cách cơ học các truyện ngắn lại với nhau. Điều
này chắc chắn một người như Nguyễn Một không thể không hiểu và tính đến khi viết
và cho xuất bản cuốn sách này. Vấn đề ở đây chỉ có thể được lý giải là tác giả
đã xây dựng cuốn tiểu thuyết không dựa trên một vấn đề cụ thể, mang tính luận đề truyền thống như nhiều người đã
làm, mà anh xây dựng nó dựa trên một ý niệm
mang tính chất tôn giáo và tâm linh. Đấy chính là ý tưởng của quá trình tìm lại
Đức Tin đã mất. Nhưng khi ý tưởng đó
được thể hiện bằng hình tượng, ngôn ngữ, hệ thống nhân vật, giọng điệu, kết cấu,...
của tác phẩm thì nó lại trở thành một thông
điệp rộng và sâu hơn, cái mà tác giả
muốn gửi tới bạn đọc của mình. Như thế có thể thấy nghệ thuật giấu ý tưởng của Nguyễn Một khá thành
công.
Ở Ngược Mặt trời, chúng ta còn có thể nhận
thấy khá rõ thủ pháp sử dụng nghệ thuật tập
mờ (fuzzy set) của Nguyễn Một. Đây là một khái niệm thuộc chuyên ngành toán
học. Tập mờ là lý thuyết tập hợp phi cổ điển dùng để xác định các tham số nằm
ngoài tập hợp theo quan điểm truyền thống. Những câu chuyện mà tác giả kể/viết
ra trong cuốn sách này không thể định dạng lại (redefaut) theo cách viết và đọc của tiểu thuyết truyền thống. Trong
Ngược Mặt trời người đọc có thể được
xem vở kịch Pho tượng đồng đen ở phần
Linh hồn hoang tháp (trang 78), đó là cuộc đối thoại của hai nhân vật chính Trần
Hiệp, viên quan địa phương, người yêu của Kha Ly và Kha Ly, cô gái người của
Vương quốc Hoa Sứ Trắng; và một bộ phim ở phần Trích đoạn số phận (trang 168) dưới dạng ngôn
ngữ văn bản. Tất nhiên thứ ngôn ngữ văn bản ấy chẳng thể nào sân khấu hóa hay điện ảnh hóa được. Chúng ta cũng có thể được nghe những câu chuyện
hết sức phi lý, không hề tuân theo những
suy luận logic hình thức thông thường nào, nhưng lại có thể dẫn dụ ta vào những
giấc mơ, ký ức, tiềm thức, mặc khải và huyễn tưởng hay trở về với quá khứ cách
đây vài trăm năm từ thời vua Minh Mạng, Nguyễn Ánh, Bá Đa Lộc... Đây là những vấn
đề khá nhạy cảm về chiến tranh và tôn giáo, nhưng đã được Nguyễn Một thể hiện một
cách thấu tình, đạt lý. Tất cả những điều này đã tạo nên một tập mờ dưới dạng văn bản tác phẩm văn
chương. Rõ ràng là dạng ngôn ngữ văn bản kiểu này không cho phép người đọc kể lại
nội dung tiểu thuyết, tức là không thể nào định dạng lại cốt truyện được.
Tác
giả dường như chỉ kể lại những chuyện rời
rạc mà không gò ép các yếu tố tạo nên tác phẩm vào một khuôn mẫu cấu trúc
mang tính chỉnh thể nào theo cách mà các nhà tiểu thuyết truyền thống vẫn thường
làm. Trong ngôn ngữ phê bình hiện đại có người gọi đây là dạng cấu trúc mở. Tuy nhiên trong Ngược mặt trời, Nguyễn Một đã tận dụng tối
đa dạng cấu trúc này, đạt ngưỡng mở vô
biên độ, đến mức dường như là không thể nào đóng lại được. Đây không biết có phải là chủ đích của tác giả hay
là hiệu quả khách quan ngoài ý muốn mà tác phẩm mang đến.
Dù
là có hay không chủ đích của tác giả, thì người hưởng lợi đầu tiên và nhiều nhất
vẫn thuộc về công chúng, bạn đọc. Bởi lẽ, với cấu trúc mở này, nhà văn đã tạo
ra cho người đọc một không gian vô cùng thoáng rộng, cũng như khả năng cộng hưởng
cao để có thể tiến sâu hơn vào quá trình đồng sáng tạo với tác giả. Công chúng
có nhiều hơn những cơ hội để khám phá miền ký ức, tiềm thức, giấc mơ, mộng mị
và cả những huyễn hoặc, giả tưởng của các nhân vật trong tác phẩm cũng như sự
diễn tiến của câu chuyện.
Cuối
cùng, theo tôi với Ngược mặt trời,
Nguyễn Một đã chạm đến các thủ pháp nghệ thuật của tiểu thuyết dòng ý thức, dù không phải là mới với
văn chương thế giới, nhưng lại rất mới và hiếm đối với văn chương Việt. Sự kiện,
nhân vật, hình ảnh, ngôn ngữ,... cứ tuồn tuột chảy tràn ra trên các trang viết,
kể cả tiềm thức, cái chưa chịu sự kiểm duyệt của ý thức, nhưng nếu có Đức Tin
thì người ta hoàn toàn có thể cảm nhận được nó. Đọc kỹ tôi thấy dường như tác
giả không định làm thế, nhưng vô thức cứ cuốn mạch văn, nguồn chữ, làm cho tác
giả là người chạy theo, mất khả năng làm chủ diễn tiến của câu chuyện cũng như
sự hiện diện của những mặc khải, khiến Ngược
mặt trời có sức lôi cuốn lạ thường đối với người đọc như tôi.
Có
nhiều phân khúc Nguyễn Một đã sử dụng thủ pháp dòng ý thức, mà chúng ta thường bắt gặp trong các tác phẩm thuộc
trường phái Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo
của văn chương Mỹ la tinh, khá thành công. Trong ngôn ngữ điện ảnh có người gọi
đó là thủ pháp đồng hiện. Dường như
tác giả không bao giờ quan tâm, hay đúng hơn là có mà không thể quan tâm được
việc sắp xếp các sự kiện, nhân vật theo một trật tự, lớp lang nào. Ở đây khái
niệm thì của thời gian quá khứ- hiện tại- tương lai, cũng như khái niệm không
gian ba chiều đã hoàn toàn bị đảo lộn, thậm chí là bị tước bỏ, dành đất cho những
mặc khải của chủ thể thẩm mỹ và trí
tưởng tượng của người đọc thả sức tung hoành. Điều ấy góp phần lý giải tại sao
với một cuốn tiểu thuyết hơn 200 trang, gồm 23 phần mà Nguyễn Một năm lần nhắc
đến mặc khải như: Mặc
khải tình yêu (p.4); Mặc khải Đức Tin (p.11); Mặc khải thánh thể (p.14); Mặc
khải bóng tối (p.15) và cuối cùng là Mặc
khải trừng phạt (p.17). Đây là những phạm trù thuộc lĩnh vực đời sống tinh
thần và tâm linh, nên chỉ có thể dùng mặc
khải mới hy vọng bày tỏ được những ý tưởng sáng tạo của nhà văn mà không
cân quan tâm đến đúng- sai hay phải- trái. Đấy cũng là những thành công về mặt
thủ pháp nghệ thuật của Nguyễn Một trong Ngược
Mặt trời.
Đ.N.Y